Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 100A/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 100A /2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 72/2022/TLST-HNGĐ ngày 04/4/2022 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 111/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 81/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1984.

Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Chị Vũ Thị D, sinh năm 1987.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Đài Loan (Vắng mặt).

3. Người làm chứng: Ông Vũ Đình N, sinh năm 1956, địa chỉ: Đ, L, thành phố C, tỉnh Hải Dương. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Nguyễn Đình T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị Vũ Thị D tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã L, C, tỉnh Hải Dương vào ngày 29/9/2008. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn T, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương và không có mâu thuẫn gì. Năm 2014 chị D đi lao động tại Malaysia và về nước vào năm 2017. Sau đó anh T có động viên chị D ở trong nước làm kinh tế, tuy nhiên đến đầu năm 2019 chị D tiếp tục sang Đài Loan lao dộng, vợ chồng anh chị nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Anh T và chị D thường xuyên cãi nhau, không tin tưởng nhau. Hiện anh T và chị D không ai quan tâm đến ai, không liên lạc gì. Nay anh T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, chung sống không có hạnh phúc, không thể hòa giải mâu thuẫn. Anh T đề nghị tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị D để anh T có thể ổn định được cuộc sống mới.

Về quan hệ con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Đình Hải N, sinh ngày 23/9/2009 và Nguyễn Như Q, sinh ngày 06/02/2013. Hiện hai cháu đều đang ở cùng anh T và các cháu đều có nguyện vọng được ở cùng bố. Do chị D hiện không có mặt ở Việt Nam nên anh T đề nghị tòa án giải quyết cho anh được nuôi dưỡng cả hai cháu. Anh T tự nguyện không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung: Anh T xác định vợ chồng có tài sản chung nhưng nhưng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các biên bản lấy lời khai, bố đẻ của chị Vũ Thị D là ông Vũ Đình N trình bày: Ông N là bố đẻ của chị Vũ Thị D và anh T là chồng chị D và là con rể của ông. Anh T và chị D kết hôn tự nguyện và có đăng ký tại UBND xã L, C, tỉnh Hải Dương. Mâu thuẫn của anh T và chị D ông và gia đình đều nắm được. Hiện chị D đang đi lao động tại Đài Loan đã hơn hai năm nay chưa về nước lần nào. Do chị D không nói địa chỉ cụ thể nên ông không cung cấp địa chỉ cụ thể của chị D tại Đài Loan cho Tòa án được. Gia đình vẫn thường xuyên liên lạc với chị D nên ông N nhận các văn bản tố tụng của Tòa án để thông báo cho chị D biết việc anh T đang yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, đồng thời thông báo nội D các văn bản tố tụng của tòa án cho chị D biết. Qua trao đổi thì ông được chị D cho biết chị D có quan điểm rằng vợ chồng ly thân đã lâu, nay anh T xin ly hôn thì chị D đồng ý. Chị D xác định vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Đình Hải N, sinh ngày 23/9/2009 và Nguyễn Như Q, sinh ngày 06/02/2013. Hiện hai cháu đều đang ở ổn định cùng anh T và các cháu đều có nguyện vọng được ở cùng bố. Do chị D hiện không có mặt ở Việt Nam nên anh T có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con và anh T tự nguyện không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con thì chị D đồng ý. Về tài sản chung chị D xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do điều kiện công việc thường xuyên thay đổi địa chỉ nên chị D không thể cung cấp địa chỉ cụ thể, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt chị D và tống đạt các văn bản thông qua bố đẻ chị là ông N. Ông N đồng ý nhận thay để thông báo cho chị D. Ngoài ra ông N không trình bày hay có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt.

Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đến nay tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa cũng như những người tham gia tố tụng cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng.

- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 56,81,82,83 Luật HN&GĐ năm 2014, Nghị quyết 326 quy định về án phí, lệ phí Tòa án chấp nhận xử cho anh Nguyễn Đình T được ly hôn chị Vũ Thị D. Giao cho anh T được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Đình Hải N, sinh ngày 23/9/2009 và Nguyễn Như Q, sinh ngày 06/02/2013. Chị D không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh T phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Về thẩm quyền thụ lý và giải quyết: Anh Nguyễn Đình T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với chị Vũ Thị D là người Việt Nam hiện đang lao động tại Đài Loan, có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương. Căn cứ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Theo Công văn của Cục quản lý xuất nhập cảnh, chị D xuất cảnh vào ngày 27/10/2019. Từ đó đến nay chị D chưa nhập cảnh lần nào.

Về việc tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn: Anh T chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của chị D ở Việt Nam nhưng không cung cấp được địa chỉ của chị D tại nước ngoài. Tòa án đã yêu cầu bố đẻ chị D là ông Vũ Đình N cung cấp địa chỉ của chị D đến lần thứ hai nhưng ông N cũng không biết địa chỉ của chị D tại Đài Loan. Tuy nhiên ông N vẫn liên lạc được với chị D nên đã nhận các văn bản tố tụng để thông báo cho chị D. Đồng thời, Tòa án cũng tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa anh T vắng mặt, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; chị D vắng mặt mặc dù đã được Tòa án thông báo qua thân nhân và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định. Do đó, HĐXX căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt anh T và chị D là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị Vũ Thị D tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã L, C, tỉnh Hải Dương vào ngày 29/9/2008 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Năm 2014 chị D đi lao động tại Malaysia và về nước vào năm 2017. Sau đó anh T có động viên chị D ở trong nước làm kinh tế, tuy nhiên đến đầu năm 2019 chị D tiếp tục sang Đài Loan lao dộng, vợ chồng anh chị nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Anh T và chị D thường xuyên cãi nhau, không tin tưởng nhau. Hiện anh T và chị D không ai quan tâm đến ai, không liên lạc gì.

Xét thấy hôn nhân của anh T và chị D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng ly thân nhiều năm, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được. Thông qua ông N thì chị D cũng xác định vợ chồng có mâu thuẫn, ly thân đã lâu, đồng ý ly hôn với anh T nên cần chấp nhận cho anh T ly hôn với chị D là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Đình Hải N, sinh ngày 23/9/2009 và Nguyễn Như Q, sinh ngày 06/02/2013. Hiện hai cháu đều đang ở ổn định cùng anh T và các cháu đều có nguyện vọng được ở cùng bố. Chị D hiện không có mặt ở Việt Nam, anh T và chị D đều đề nghị tòa án giải quyết cho anh T được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai cháu. Anh Ttự nguyện không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con, chị D đồng ý.

Xét thấy quan điểm của anh chị có sự thống nhất và phù hợp với nguyện vọng của con chung nên cần chấp nhận cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung đến khi trưởng thành và chấp nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Anh T và chị D xác định vợ chồng có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Anh T là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273, khoản 2 Điều 479 BLTTDS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 474, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Đình T được ly hôn Chị Vũ Thị D.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho anh Nguyễn Đình T được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung là Nguyễn Đình Hải N, sinh ngày 23/9/2009 và Nguyễn Như Q, sinh ngày 06/02/2013 đến khi trưởng thành. Chị Vũ Thị D không phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Chị Vũ Thị D có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Đình T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí do chị Vũ Thị C đã nộp thay anh T tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2021/0000019 ngày 31/3/2022. Anh T đã nộp xong.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Đình T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, chị Vũ Thị D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ, hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 100A/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:100A/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về