Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHI LĂNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 50/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2022/QĐXX-ST ngày 01 tháng 3 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29/3/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị L, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn P, xã V, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Huy H, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn G, xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hoàng Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị L và anh Nguyễn Huy H kết hôn vào ngày 04 tháng 02 năm 2018 trên cơ sở tự nguyện, trước khi kết hôn có được tìm hiểu khoảng 03 năm, sau đó được hai bên gia đình tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán, đến ngày 06/02/2018 chị L và anh H đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, sau ngày cưới vợ chồng chung sống với bố mẹ chồng tại thôn G, xã Y. Đến tháng 5 năm 2019, do bên ngoại có thửa đất có thể xây quán bán hàng nên vợ chồng chị L chuyển về bên ngoại để bán hàng. Đến cuối năm 2020 vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H không chịu làm ăn lo toan gia đình, giúp đỡ vợ con chỉ ham chơi bời, rượu chè, chị có khuyên bảo nhiều lần anh H không nghe còn chửi bới, xúc phạm chị nhiều lần, nhưng chị vẫn cố gắng chịu đựng để nuôi dạy con cái, phát triển kinh tế gia đình. Trong thời gian vợ chồng ở bên ngoại chị L có ghi ngờ anh H có quan hệ với người con gái khác, dẫn đến vợ chồng cãi chửi nhau. Do vậy đến tháng 7 năm 2021 anh H đã bỏ về bên nội sinh sống từ đó cho đến nay vợ chồng sống ly thân, trong thời gian vợ chồng sống ly thân anh H cũng không hỏi han gì và cũng không đến đón chị và con về, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn xin được ly hôn với anh Nguyễn Huy H.

Về con chung: Chị Hoàng Thị L và anh Nguyễn Huy H có 01 con chung là cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 12/02/2019, khi ly hôn chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh Nguyễn Huy H phải cấp dưỡng nuôi con. Chị L có đủ điều kiện nuôi con.

Về tài sản chung trong thời gian chung sống vợ chồng không tạo dựng được tài sản chung và cũng không có nợ chung.

Trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án đã nhiều lần triệu tập, thông báo có tống đạt hợp lệ nhưng anh Nguyễn Huy H cố tình vắng mặt nên không có lời khai về ý kiến, yêu cầu của anh H đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại biên bản xác minh ngày 01/3/2022 bà Lương Thị O mẹ đẻ của anh Nguyễn Huy H trình bày: Năm 2018 vợ chồng bà tổ chức đám cưới cho anh H và chị L. Sau một thời gian sinh sống cùng gia đình nhà chồng, khi chị L có bầu được 06 tháng có xin phép vợ chồng bà O để sang nhà ngoại làm quán bán hàng. Trong thời gian hai vợ chồng anh H, chị L sống ở nhà bà ngoại chị L nghi ngờ anh H có quan hệ ngoại tình dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, do vậy đến tháng 7 năm 2021 anh H đã bỏ về chung sống cùng vợ chồng bà O, sống ly thân từ đó cho đến nay, anh H không có khả năng, điều kiện nuôi con do không có việc làm ổn định, thu nhập chỉ đủ cho anh H sinh sống. Nay chị L viết đơn xin ly hôn là do vợ chồng chị L quyết định. Đối với các văn bản tố tụng Tòa án gửi cho anh H, bà O đã đưa cho anh H nhưng bà không ép anh H đến Tòa án được.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng anh Nguyễn Huy H không có mặt nên đã thông báo kết quả cho anh H được biết. Vụ án không tiến hành hòa giải được do anh H vắng mặt và chị L có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn không chấp hành các quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Hoàng Thị L ly hôn với anh Nguyễn Huy H.

Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 12/02/2019, cho chị Hoàng Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, anh Nguyễn Huy H không phải cấp dưỡng nuôi con. Sau khi ly hôn anh Nguyễn Huy H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Về án phí: Chị Hoàng Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn chị Hoàng Thị L đã giao nộp chứng cứ cho Toà án gồm: Giấy chứng nhận kết hôn, giấy tờ tuỳ thân, giấy khai sinh của con chung; giấy xác nhận thu nhập; đơn xin xác nhận đã đóng góp các khoản học phí cho con; giấy chuyển nhượng nhà đất.

Tài liệu do Tòa án thu thập được gồm có các biên bản xác minh tại UBND xã Y và tại nhà bà Lương Thị O, thôn G, xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.

Tình tiết sự kiện không phải chứng minh: Không có.

Tình tiết sự kiện phải chứng minh: Về điều kiện kết hôn, quá trình chung sống, phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng sống ly thân. Về con chung, về tài sản chung, nợ chung. Về điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con chung của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Hoàng Thị L, bị đơn anh Nguyễn Huy H đều có hộ khẩu thường trú tại thôn G, xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, hiện nay bị đơn vẫn cư trú tại đây, nguyên đơn đã chuyển về sinh sống tại thôn P, xã V, huyện C, tỉnh Lạng Sơn, do vậy Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh Nguyễn Huy H vắng mặt tại phiên toà không có lý do. Kiểm sát viên, nguyên đơn không có ý kiến gì về sự vắng mặt của bị đơn và yêu cầu phiên toà được tiếp tục. Xét thấy, sự vắng mặt của bị đơn không gây cản trở cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị L và anh Nguyễn Huy H kết hôn vào ngày 04 tháng 02 năm 2018, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Y, huyện C, tỉnh Lạng Sơn nên cuộc hôn nhân này là hợp pháp. Tuy nhiên cuộc sống chung của vợ chồng đã xẩy ra mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân do vợ chồng không tin tưởng nhau, thường xuyên cãi vã và nghi ngờ nhau, anh H và chị L đã không còn sống chung từ năm 2021, việc này đã được thể hiện trong các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, phù hợp với lời trình bày của bà Lương Thị O là mẹ đẻ của anh H. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị Hoàng Thị L và anh Nguyễn Huy H đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc anh Nguyễn Huy H đã được thông báo về yêu cầu ly hôn của chị L nhưng cố tình không đến Tòa án để giải quyết thể hiện anh H không còn tình cảm, không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân với chị L nên chị Hoàng Thị L yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Huy H là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Hoàng Thị L và anh Nguyễn Huy H có 01 con chung là cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 12/02/2019. Chị L yêu cầu được nuôi con. Xét yêu cầu của chị L về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn là có căn cứ vì chị L đã cung cấp mức thu nhập ổn định hàng tháng 7.000.000 đồng, gia đình bên ngoại hỗ trợ chị về chỗ ở gần với trường học nơi con chị đang theo học do đó việc giao con cho chị L sẽ đảm bảo được về điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc và học tập cho con. Nên việc giao con cho chị L nuôi dưỡng là có căn cứ, không trái pháp luât và đạo đức xã hội. Anh Nguyễn Huy H không có việc làm, không có thu nhập ổn định nên không đủ điều kiện nuôi con. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con do chị L không yêu cầu.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có yêu cầu nên không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Hoàng Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228; các Điều 266, 271; khoản 1 Điều 273; của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; các Điều 57, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị L. Xử cho chị Hoàng Thị L ly hôn với anh Nguyễn Huy H.

2. Về con chung: Chị Hoàng Thị L được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thu H, sinh ngày 12/02/2019, từ khi án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Huy H không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị L phải chịu 300.000đ, (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước. Xác nhận chị Hoàng Thị L đã nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng Sơn, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0003167 ngày 16/11/2021.

4. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chi Lăng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về