Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 04/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 05 tháng 02 năm 2021 tại Hội trường A – Tòa án nhân dân huyện T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2020/TLST - HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2021/QĐXX-ST ngày 14 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2021/QĐST – HNGĐ ngày 13/5/2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Kim H - sinh năm: 1989 Địa chỉ: Số nhà 3408, ấp S, xã S, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh Lưu Quốc V - sinh năm: 1983 Địa chỉ: Số nhà 284/1, ấp D, xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai. (Chị H có mặt, anh V vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 24 tháng 9 năm 2020 và trong quá trình giải quyết, xét xử, nguyên đơn chị Trần Thị Kim H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh V quen biết, tìm hiểu yêu thương được 02 năm thì tự nguyện đi đến đăng ký hôn và được được UBND xã G, huyện T cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 04/10/2007, đây là hôn nhân lần đầu của chị H.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến khi chị H sinh con vào năm 2008 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh V không lo lắng, quan tâm đến gia đình ham chơi, cờ bạc, nhậu nhẹt với bạn bè dẫn đến vợ chồng mâu thuẩn gây gỗ. Chị H nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh V không thay đổi. Từ năm 2009 chị H và anh V sống ly thân, chị và con đã về nhà cha mẹ đẻ sống tại X còn anh V vẫn sống tại nhà bố mẹ đẻ ở xã G, huyện T. Kể từ đó đến nay vợ chồng không quan tâm đến nhau, không thực hiện quyền nghĩa vụ chung vợ chồng, không bàn bạc đoàn tụ.

Trước Tòa án chị H xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh V yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn với anh Lưu Quốc V.

Về con chung: Vợ chồng chung sống có 01 con chung là cháu Lưu Thanh T, sinh ngày: 25/6/2008. Hiện nay cháu T đang sống chung với chị tại số nhà 3408, ấp S, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai.

Khi ly hôn chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung.

Hiện nay nghề nghiệp chị H là may gia công túi xách tại nhà, thu nhập trung bình mỗi tháng khoảng 6.000.000đ (sáu triệu đồng), chị sống cùng với cha mẹ nên đủ điều kiện để nuôi con tốt.

Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ riêng: Không có * Bị đơn anh Lưu Quốc V không chấp hành pháp luật, không đến Tòa án tham gia giải quyết vụ án, không cung cấp văn bản trình bày ý kiến và tài liệu, chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện của chị H và vắng mặt tại phiên tòa.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm.

Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Nguyên đơn, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H cho chị được ly hôn với anh V; giao con chung cháu T cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, tạm thời anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung; Về chia tài sản chung, nợ chung không đặt ra xem xét; Chị H phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn chị Trần Thị Kim H khởi kiện tranh chấp ly hôn, bị đơn anh Lưu Quốc V có nơi cư trú tại xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự cho anh V: Anh V đã được Tòa án đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng vẫn không đến Tòa án làm việc.

Anh V đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh Việt.

[2]. Về Nội dung:

Xét về quan hệ hôn nhân.

Chị H và anh V tự nguyện xây dựng gia đình vào năm 2007, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã G, huyện T, tỉnh Đồng Nai, cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 04/02/2007, đáp ứng điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Nên hôn nhân của chị H và anh V được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống xảy ra mâu thuẫn chị H khởi kiện xin ly hôn anh V. Xét thời điểm hiện tại Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đang có hiệu lực, việc kết hôn của chị H và anh V cũng thỏa mãn điều kiện theo quy định tại điều 8 của luật hôn nhân gia đình năm 2014, nên Hội đồng xét xử áp dụng luật hôn nhân năm 2014 để giải quyết.

Trong suốt quá trình tố tụng, anh V không đến Tòa án tham gia gia giải quyết vụ án và không cung cấp văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của chị H. Tuy nhiên căn cứ vào kết quả xác minh tại chính quyền địa phương xã G ngày 18/11/2020 cung cấp, mâu thuẫn trong hôn nhân giữa chị H và anh V địa phương không nắm được, nhưng vợ chồng có 01 con chung, con chung đang sống với chị H. Việc chị H xin ly hôn anh V đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tòa án cũng tiến hành xác minh đối với bà Hà Thị K là mẹ ruột sống cùng nhà với anh V, bà K cung cấp thông tin từ năm 2010 anh V và chị H không còn chung sống với nhau, anh V thì sống cùng với bà Tại xã G, huyện T, còn chị H sống cùng với gia đình của chị tại huyện X cho đến ngày hôm nay, vợ chồng chị H và anh V có 01 con chung, hiện nay cháu T được chị H nuôi dưỡng. Do anh V là người theo đạo công giáo nên anh không đến Tòa án giải quyết việc ly hôn.

Do anh V không chấp hành pháp luật đến Tòa án tham gia tố tụng để giải quyết vụ án, nên Tòa án căn cứ vào lời khai của chị H và kết quả xác minh vào ngày 18/11/2020 để làm cơ sở giải quyết vụ án.

Xét hôn nhân giữa chị H và anh V không hạnh phúc, mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh V không quan tâm chăm sóc gia đình, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2010 đến nay. Tòa án đã tiến hành thông báo, triệu tập anh V đến Tòa để hòa giải đoàn tụ theo quy định nhưng anh V không đến hòa giải thể hiện anh V không có thiện chí muốn đoàn tụ với chị H để xây dựng lại gia đình hạnh phúc. Điều đó cho thấy hôn nhân giữa chị H và anh V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của H, cho chị được ly hôn với anh V.

[3]. Về con chung: Quá trình chung sống chị H và anh V có một con chung là cháu Lưu Thanh T, sinh ngày: 25/6/2008. Cháu T chung sống với chị H từ năm 2010 cho đến nay. Khi ly hôn chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Xét yêu cầu của chị H phù hợp với nguyện vọng của cháu T muốn sống cùng với mẹ. Hội đồng xét xử nhận thấy cháu T tuổi đời còn nhỏ, đã sinh sống ổn định với chị H, để đảo bảo việc phát triển ổn định về tâm sinh lý nên Hội đồng xét xử giao cháu T cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc.

[4]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa chị H Không yêu cầu anh Việt cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5]. Về tài sản: Chị H không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6]. Về nghĩa vụ tài sản: Không có, Hội đồng xét xử không giải quyết.

[7]. Chị H là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bên đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Viện kiểm sát về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp nhận định trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1, khoản 2 Điều 227, Điều 235 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 8, khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, khoản 1, khoản 2 Điều 81; Điều 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Kim H, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với bị đơn anh Lưu Quốc V.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trần Thị Kim H và anh Lưu Quốc V.

2. Về nuôi con chung:

Giao con chung Lưu Thanh T, sinh ngày: 25/6/2008 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Tạm thời anh V không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Anh Lưu Quốc V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết anh Lưu Quốc V, chị Trần Thị Kim H được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con…

3. Về chia tài sản: Không giải quyết.

4. Về nghĩa vụ tài sản: Không có, không giải quyết 5. Về nghĩa vụ chịu án phí: Chị Trần Thị Kim H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0006238 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đồng Nai. Chị H đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Kim H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Lưu Quốc V được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được cấp, tống đạt hoặc được niêm yết theo quy định

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 04/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về