Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 03/2024/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 24 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: v112/2023/TLST- HNGĐ, ngày 15 tháng 11 năm 2023 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 02 tháng 01 năm 2024, Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2024/QĐST-HNGĐ, ngày 19 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Triệu Thị N, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn K, xã A, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Phạm Thị T – Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nông Văn V, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 15/11/2023, các lời khai sau đó và quá trình tiến hành tố tụng nguyên đơn chị Triệu Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nông Văn V được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn, được hai gia đinh tổ chức cưới cho theo phong tục địa phương có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn thì chung sống tại K, xã A, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Thời gian đầu tình cảm vợ chồng bình thường, tuy nhiên được một thời gian khoảng năm 2018 thì nảy sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh Nông Văn V đi uống rượu say về là hay chửi bới đập phá đồ đạc trong nhà, chị khuyên bảo nhưng không nghe. Đôi khi vợ chồng lại đánh nhau, tình cảm vợ chồng không thể cải thiện được, đến khoảng tháng 12/2022 thì anh Nông Văn V bỏ về B, xã N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn sinh sống. Từ đó chị và anh Nông Văn V không liên lạc hay quan tâm gì nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng với anh Nông Văn V không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn, chị đề nghị không hòa giải và xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

Về con chung: Có 01 con chung là cháu Nông Thị Ngọc Y, sinh ngày 24- 11-2014 đang sống cùng anh Nông Văn V, do anh Nông Văn V và gia đình anh Nông Văn V chăm sóc, giáo dục, cháu vẫn đảm bảo phát triển và được chăm sóc đầy đủ. Do vậy chị yêu cầu khi ly hôn anh Nông Văn V là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi trưởng thành, đủ 18 tuổi. Chị Triệu Thị N không cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay chị không có việc làm, không có thu nhập, người thường xuyên đau ốm.

Quá trình chung sống chị và anh Nông Văn V không có tài sản chung gì, không vay nợ ai.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày cùng ý kiến với nguyên đơn: Chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống hiện nay đã không quan tâm, yêu thương nhau, sống ly thân căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Triệu Thị N được ly hôn với anh Nông Văn V. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là cháu Nông Thị Ngọc Y, sinh ngày 24-11-2014 cho anh Nông Văn V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do anh Nông Văn V chưa yêu cầu nên chị Triệu Thị N chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu xem xét, giải quyết. Đề nghị miễn án phí ly hôn sơ thẩm cho chị Triệu Thị N do chị Triệu Thị N là người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đã có đơn xin miễn tạm ứng án phí, miễn án phí.

Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng: Giấy triệu tập, Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Nông Văn V, nhưng anh Nông Văn V không cung cấp bản khai cho Tòa án và cũng không hợp tác nên Tòa án không thể lấy lời khai của anh Nông Văn V được.

Tại biên bản xác minh ngày 09/01/2024 với bà Nguyễn Thị I là mẹ của anh Nông Văn V cho biết: Gia đình đã thông báo các nội dung văn bản tố tụng cho anh Nông Văn V, anh Nông Văn V nhất trí ly hôn và nhất trí nuôi con là cháu Nông Thị Ngọc Y, không có ý kiến gì về tài sản chung, nợ chung và vấn đề khác. Anh Nông Văn V và chị Triệu Thị N có mâu thuẫn, có cãi chửi nhau, chị Triệu Thị N không quan tâm đến anh Nông Văn V. Cháu Nông Thị Ngọc Yến đang sống cùng vợ chồng ông bà và anh Nông Văn V, anh Nông Văn V vẫn gửi tiền và về thăm cháu Nông Thị Ngọc Y, cháu Nông Thị Ngọc Y vẫn được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, đầy đủ.

Tại biên bản xác minh ngày 05/01/2024 với trưởng thôn B, xã N cho biết: Quá trình chung sống giữa chị N và anh V thôn không nắm được mâu thuẫn. Khoảng 01 năm nay thì không thấy chị Nảy về B, N sống, anh Việt sống tại B N. Anh V đi làm ăn xa, thỉnh thoảng vẫn về nhà. Cháu Nông Thị Ngọc Yến đang sống cùng bố mẹ đẻ anh V và anh V, vẫn được gia đình anh V chăm sóc, nuôi dưỡng tốt.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 09/01/2024, cháu Nông Thị Ngọc Y trình bày: Bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng sống với bố do bố cháu vẫn quan tâm và chăm sóc cháu, cháu vẫn được ông bà và bố chăm sóc, đưa đón đi học đầy đủ và đảm bảo.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn: Về tố tụng: Thẩm phán đã xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng; thực hiện đúng việc thu thập tài liệu chứng cứ, việc tống đạt văn bản tố tụng được thực hiện hợp lệ, trình tự thụ lý, thời hạn chuẩn bị xét xử và nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử theo Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 68, Điều 93 đến Điều 97, Điều 175, Điều 177, Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Thư ký đã thực hiện đúng, đầy đủ về thủ tục chuẩn bị khai mạc phiên tòa, ghi chép diễn biến phiên tòa cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án theo quy định tại Điều 51, Điều 237 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn đã chấp hành, thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đã chấp hành, thực hiện đúng các quy định tại các Điều 75, Điều 76 Bộ luật Tố tụng dân sự Về việc giải quyết vụ án: Chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V được tự do tìm hiểu và gia đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N. Trong qúa trình chung sống xảy ra mâu thuẫn, chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V đã ly thân, trong thời gian sống ly thân không ai quan tâm hỏi han chăm sóc lẫn nhau, nay chị Triệu Thị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Nông Văn V. Anh Nông Văn V không cung cấp bản khai nhưng qua bà Nông Thị I mẹ đẻ anh Nông Văn V thì anh Nông Văn V cũng nhất trí ly hôn.

Nhận thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, cuộc sống hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị Triệu Thị N. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xử cho chị Triệu Thị N được ly hôn với anh Nông Văn V.

Về con chung: Tuy anh Nông Văn V không hợp tác nhưng qua làm việc với bà Nguyễn Thị Ít là mẹ đẻ của anh Nông Văn V thì anh Nông Văn V đồng ý nuôi dưỡng con chung là cháu Nông Thị Ngọc Y và không có ý kiến gì khác. Chị Triệu Thị N cũng đề nghị anh Nông Văn V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Mặt khác cháu Nông Thị Ngọc Yến đủ 07 tuổi có nguyện vọng sống cùng anh Nông Văn V, để đảm bảo quyền lợi cho cháu, tránh cuộc sống bị xáo trộn, đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho anh Nông Văn V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Triệu Thị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung do anh Nông Văn V chưa yêu cầu.

Về tài sản chung, nợ chung không có nên đề nghị không xem xét. Nguyên đơn chị Triệu Thị N được miễn án phí ly hôn sơ thẩm do là người dân tộc thiểu số thường xuyên sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đã có đơn xin miễn tạm ứng án phí, miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đây là phiên tòa triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nguyên đơn chị Triệu Thị N đã có đơn xin giải quyết vắng mặt, bị đơn anh Nông Văn V đã được Toà án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn triệu tập hợp lệ đến phiên toà nhưng không có mặt. Theo quy định tại Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết tranh chấp nuôi con khi ly hôn vì vậy quan hệ pháp luật là "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn" theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Nông Văn V, cư trú tại thôn B, xã N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Do đó, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn theo Giấy chứng nhận số 05, ngày 31/3/2017, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bị đơn anh Nông Văn V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và cũng có ý kiến với mẹ đẻ là nhất trí ly hôn. Hội đồng xét xử nhận thấy chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V đã sống ly thân, không còn quan tâm yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, anh Nông Văn V không có ý kiến gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V có 01 con chung là cháu Nông Thị Ngọc Y, sinh ngày 24/11/2014. Hiện nay cháu Nông Thị Ngọc Y đang sống với anh Nông Văn V. Anh Nông Văn V có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung đến khi con đủ 18 tuổi và chưa yêu cầu chị Triệu Thị N cấp dưỡng nuôi con chung. Chị Triệu Thị N cũng đề nghị anh Nông Văn V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung, mặt khác cháu Nông Thị Ngọc Y có nguyện vọng sống với anh Nông Văn V. Xét thấy con chung là cháu Nông Thị Ngọc Y đang sống với anh Nông Văn V, do anh Nông Văn V và gia đình anh Nông Văn V chăm sóc, nuôi dưỡng vẫn đảm bảo phát triển đầy đủ, toàn diện từ khi chị Triệu Thị N ly thân. Do vậy Hội đồng xét xử giao con chung cho anh Nông Văn V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Triệu Thị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung do anh Nông Văn V chưa yêu cầu. Chị Triệu Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Triệu Thị N và anh Nông Văn V xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Triệu Thị N được miễn án phí ly hôn sơ thẩm do là người dân tộc thiểu số sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, đã có đơn xin miễn tạm ứng án phí, miễn án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[7] Xét thấy ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 271, khoản 1 Điều 273; Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Triệu Thị N được ly hôn với anh Nông Văn V. (Giấy chứng nhận kết hôn số 05, đăng ký ngày 31/3/2017 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn).

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nông Thị Ngọc Y, sinh ngày 24-11-2014 cho anh Nông Văn V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Chị Triệu Thị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung do anh Nông Văn V chưa yêu cầu.

Chị Triệu Thị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở chị Triệu Thị N thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Chị Triệu Thị N được miễn án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 03/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Bình - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về