Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con số 86/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 86/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG VÀ CẤP DƯỠNG NUÔI CON 

Ngày 28 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 256/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2021 về việc “Yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2021/QĐXX-ST ngày 24 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị S Địa chỉ: Thôn 2, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn H Địa chỉ: Thôn 2, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, chị Huỳnh Thị S trình bày:

Chị với anh Hoàng Văn H đã sống chung với nhau và đăng ký kết hôn từ ngày 21-7-2015 tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau do bất đồng quan điểm sống, anh H hay nhậu nhẹt, đánh đập chị nhiều lần, chị với anh H đã sống ly thân với nhau không ai quan tâm chăm sóc cho nhau và hiện nay chị cảm thấy không thể chung sống với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn H.

Chị và anh H có 02 con chung tên là Hoàng Huỳnh Việt K, sinh ngày 24-01- 2015 và cháu Hoàng Kim Linh C, sinh ngày 22-3-2017. Nguyện vọng của chị là muốn được nuôi cả hai con. Chị yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, hai con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi các con đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân mình.

Về tài sản chung và nợ chung, chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục để triệu tập hợp lệ đối với anh Hoàng Văn H. Tuy nhiên, anh H không đến Tòa án để cung cấp chứng cứ, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do vậy, anh H không có lời khai tại hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho chị Huỳnh Thị S được ly hôn với anh Hoàng Văn H.

Giao 02 con chung tên là Hoàng Huỳnh Việt K, sinh ngày 24-01-2015 và cháu Hoàng Kim Linh C, sinh ngày 22-3-2017 cho chị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Buộc anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng mỗi cháu hàng tháng mỗi tháng 1.000.000 đồng, hai cháu 2.000.000 đồng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân mình.

Buộc chị S và anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, đương sự. Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Huỳnh Thị S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Hoàng Văn H, tranh chấp về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn là anh Hoàng Văn H có nơi cư trú tại số thôn 2, xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai nên Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai có thẩm quyền thụ lý, giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Anh Hoàng Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Chị Huỳnh Thị S và anh Hoàng Văn H có đăng ký kết hôn từ ngày 21-7-2015 tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố P, tỉnh Gia Lai trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đây là hôn nhân hợp pháp. Theo chị S thì thì quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau do bất đồng quan điểm sống, anh H hay nhậu nhẹt, đánh đập chị nhiều lần, chị với anh H đã sống ly thân với nhau không ai quan tâm chăm sóc cho nhau và hiện nay chị cảm thấy không thể chung sống với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn H.

[3] Xét nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn giữa chị Huỳnh Thị S và anh Hoàng Văn H là do tính cách hai vợ chồng không hợp nhau dẫn đến mâu thuẫn và hiện nay vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau. Hơn nữa, khi mâu thuẫn, bất đồng xảy ra thì không bên nào đưa ra được biện pháp để hàn gắn quan hệ vợ chồng, làm cơ sở cho việc đoàn tụ. Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập anh H để tiến hành hòa giải cho hai vợ chồng đoàn tụ nhưng anh H không đến Tòa án tham gia các phiên họp, phiên hòa giải, do đó Toa án không thể tiến hành hòa giải được. Như vậy, cho thấy anh H không còn quan tâm đến tình cảm vợ chồng và không quan tâm đến việc xây dựng gia đình cùng với chị S nữa.

Từ nhận định trên thấy rằng mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị S là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Chị S và anh H có 02 con chung tên là Hoàng Huỳnh Việt K, sinh ngày 24-01-2015 và cháu Hoàng Kim Linh C, sinh ngày 22-3-2017. Nguyện vọng của chị là muốn được nuôi cả hai con.

Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay các cháu còn nhỏ và đang sống với chị S, để tạo điều kiện cho cháu được chăm sóc, nuôi dưỡng và phát triển toàn diện về tâm, sinh lý, giáo dục nên giao các cháu cho mẹ trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị S yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng, hai con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi các con đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân mình, xét yêu cầu này là chính đáng và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị S không yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

[7] Chị S và anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 144, 147, 227 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 55, 58, 81, 82, 83, 84, 107, 110, 116, 117 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên Xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị S.

1. Cho chị Huỳnh Thị S được ly hôn anh Hoàng Văn H.

2. Giao các cháu Hoàng Huỳnh Việt K, sinh ngày 24-01-2015 và cháu Hoàng Kim Linh C, sinh ngày 22-3-2017cho chị Huỳnh Thị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Buộc anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng mỗi cháu hàng tháng là 1.000.000 đồng, hai cháu là 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và có khả năng lao động tự nuôi sống bản thân mình.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi mức cấp dưỡng.

3. Chị Huỳnh Thị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0012398 ngày 15 tháng 01 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai. Như vậy, chị Huỳnh Thị S đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Buộc anh Hoàng Văn H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với phần cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Đối với đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con số 86/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:86/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về