TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐỨC PHỔ, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG
Ngày 06 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 45/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị E, sinh năm 1973 Địa chỉ: Tổ dân phố TĐ 1, phường PT, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi;
Nơi cư trú hiện tại: tổ 14, ấp TP, xã PT, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu;
- Bị đơn: Anh Trần Văn C, sinh năm 1982 Địa chỉ: thôn TT, xã PC, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi;
Nguyên đơn và bị đơn đều vắng mặt; nguyên đơn và bị đơn xin giải quyết vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 01/3/2021, tại bản tự khai nguyên đơn Chị Hồ Thị E trình bày:
Chị và anh Trần Văn C kết hôn vào năm 2005, đăng ký kết hôn tại UBND xã Phổ Cường. Trong thời gian chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh C không chăm lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên rượu chè và còn đánh chị nên từ năm 2007 chị đã ôm con vào vào tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu sinh sống cho đến nay. Từ khi chị và con vào tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu sinh sống, anh C không liên lạc với chị để vợ chồng hòa giải, đoàn tụ cũng như thăm con chung, ngược lại anh C còn có quan hệ ngoại tình với người khác. Chị xác định vợ chồng đã không còn tình cảm, không thể hàn gắn để tiếp tục sống chung với anh C nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh C.
Về con chung: Vợ chồng chị có 1 con chung tên Trần Thị K, sinh ngày 28/5/2006. Hiện tại cháu K đang sống với chị. Do vậy khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu K, không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa giải quyết. Về nợ chung: không có.
Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Trần Văn C trình bày: Anh và Chị Hồ Thị E có quan hệ hôn nhân như chị E trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị E muốn vợ chồng về sinh sống với cha mẹ của chị E tại Phổ Thạnh nhưng anh không đồng ý, từ đó vợ chồng cãi vả; sau đó chị E bỏ về nhà cha mẹ từ năm 2015 đến nay. Anh và chị E không ai còn quan tâm đến nhau. Do vậy chị E yêu cầu ly hôn, anh đồng ý.
Về con chung: Anh thống nhất sau khi ly hôn giao con chung là cháu Trần Thị Kiển cho chị E tiếp tục nuôi dưỡng.
Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa giải quyết. Về nợ chung: Không có.
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên theo quy định tại Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự:
Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Chị Hồ Thị E, giao cháu Trần Thị K sinh ngày 28/5/2006 cho chị E trực tiếp nuôi dưỡng. Tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền: Nguyên đơn Chị Hồ Thị E có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn anh Trần Văn C ở thôn TT, xã PC, thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
[2] Về tố tụng: Nguyên đơn Chị Hồ Thị E và bị đơn anh Trần Văn C đều vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[3] Về hôn nhân: Chị Hồ Thị E và anh Trần Văn C tự nguyện đăng ký kết hôn vào năm 2005 tại Ủy ban nhân dân xã Phổ Cường, do vậy quan hệ hôn nhân giữa chị E và anh C là hoàn toàn hợp pháp. Trong thời gian chung sống do bất đồng về quan điểm sống và chỗ ở nên vợ chồng chị E thường xảy ra cãi vả, mâu thuẫn của vợ chồng chị E tuy không lớn nhưng kéo dài mà cả hai đều không có cách khắc phục, mặt khác lại quyết định sống ly thân đã hơn 6 năm, hiện tại hai bên đã không còn quan tâm nhau. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị E và anh C đã ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho chị E được ly hôn anh C.
[4] Về con chung: Vợ chồng Chị Hồ Thị E và anh Trần Văn C có 1 con chung tên Trần Thị K, sinh ngày 28/5/2006. Hiện tại cháu Kiển đang sống với chị E và cháu có nguyện vọng được sống với mẹ. Chị E và anh C đều thống nhất giao cháu K cho chị E trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Do vậy để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu Kiển, căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị E, giao cháu K cho chị E tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục. Chị E không yêu cầu cấp dưỡng cho con nên Tòa không xem xét giải quyết.
[5] Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa giải quyết nên Tòa không xét.
Về nợ chung: Chị E và anh C khai không có.
[6] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Chị Hồ Thị E phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.
[7] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội,
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho Chị Hồ Thị E được ly hôn anh Trần Văn C.
2. Về con chung: Giao cháu Trần Thị K, sinh ngày 28/5/2006 cho Chị Hồ Thị E trực tiếp nuôi dưỡng. Chị E không yêu cầu cấp dưỡng cho con.
Anh Trần Văn C có quyền, nghĩa vụ th ăm nom con, không ai được quyền cản trở.
3.Về tài sản chung và nợ chung: Chị E và anh C khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết .
4. Về án phí: Chị Hồ Thị E phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn được khấu trừ vào 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2018/0006674 ngày 12 tháng 03 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
Nguyên đơn và bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung số 20/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 20/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đức Phổ - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về