Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản số 20/2023/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 20/2023/HNGĐ-PT NGÀY 21/07/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 03/2023/TLPT-HNGĐ ngày 10/5/2023, do có kháng cáo của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T đối với bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 02/2023/HNGĐ-ST ngày 22/3/2023 của TAND thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2023/QĐXX-PT ngày 20/6/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2023/QĐ-PT ngày 04/7/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; Sinh ngày: 19/01/1993; Địa chỉ cư trú: Xóm D, thôn V, xã Đ, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh – Có mặt

- Bị đơn: Anh Dương Văn G; Sinh ngày: 10/4/1989; Địa chỉ cư trú: Thôn Đ, xã Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh – Có đơn xin xét xử vắng mặt Người giám hộ cho bị đơn: Bà Dương Thị T1; Địa chỉ: Thôn H, xã Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh – Có đơn xin xét xử vắng mặt Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Võ Quốc H – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh H – Vắng mặt

- Người phiên dịch: Bà Đậu Thị Kim L – Giáo viên Trung tâm C cho người khuyết tật thuộc Sở lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh H – Vắng mặt

- Người làm chứng:

1. Ông Dương Công K; Địa chỉ: Xóm H, xã Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh – Có đơn xin xét xử vắng mặt

2. Bà Trần Thị H1; Địa chỉ: Số nhà I, đường N, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh – Vắng mặt

3. Bà Nguyễn Thị T2; Địa chỉ: Số C, đường Q, xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh – Có đơn xin xét xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 02/2023/HNGĐ-ST ngày 22/3/2023 của TAND thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh và các tài liệu có tại hồ sơ, vụ án có nội dung như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Dương Văn G đăng ký kết hôn ngày 21/3/2019, tại UBND xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở tình yêu tự nguyện không ai ép buộc, tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật.

Theo chị T trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng bố mẹ chồng tại thôn Đ, xã Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, chị T ở nhà nội trợ, anh G đi làm công nhân may mặc, tình cảm vợ chồng khi mới cưới bình thường. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng không giao cho vợ quản lý kinh tế, tính tình không hòa hợp, chồng và gia đình chồng không tôn trọng vợ. Mâu thuẫn đỉnh điểm là cuối năm 2021 anh G và gia đình đuổi chị T ra khỏi nhà, chị T về nhà bố mẹ đẻ sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng hiện nay không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với anh G.

Về con chung: có 1 con chung tên là Dương Anh T3, sinh ngày 28/01/2020. Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con vì anh G là người câm điếc không đảm bảo được việc chăm sóc nuôi dạy con và chị T yêu cầu anh G đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 02 triệu đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi trưởng thành. Về điều kiện nuôi con, chị T trình bày: chị làm nghề bán hàng online thu nhập 5.000.000 đồng/tháng, có nhà ở ổn định hiện đang sống cùng mẹ đẻ tại thôn V, xã Đ, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh, có thời gian ngoài giờ làm việc để chăm sóc con.

Về tài sản chung: Tài sản chung vợ chồng có 01 chiếc xe máy hiệu Vison mang BKS 38P1-581.xx trị giá hiện tại khoảng 20.000.000 đồng và có 23 chỉ vàng 9999 gia đình nội ngoại cho khi cưới, đã sử dụng 3,5 chỉ. Tại đơn khởi kiện chị T yêu cầu chia tài sản chung như sau: Về chiếc xe máy, chị T yêu cầu chia đôi; Về số vàng chị T yêu cầu anh G trả lại cho chị T 6,5 chỉ trị giá 33.735.000 đồng do gia đình chị T tặng cho và 0,52 chỉ vàng tây trị giá 2.078.000 đồng chị T để lại khi ra khỏi nhà, tổng trị giá 35.813.000 đồng. Tại phiên tòa, chị T rút yêu cầu khởi kiện về việc chia tài sản chung vợ chồng nói trên.

Anh Dương Văn G và người giám hộ của anh G trình bày: Về thời gian, điều kiện kết hôn thống nhất như trình bày của chị T. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng giữa năm 2020 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, mâu thuẫn đỉnh điểm từ cuối năm 2021, chị T bỏ về nhà mẹ đẻ sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Anh G trình bày vẫn còn tình cảm với chị T và có nguyện vọng muốn đoàn tụ nhưng nếu chị T nhất quyết ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: Anh G và chị T có 01 con chung như trình bày của chị T. Con sinh ra sống chung cùng 02 vợ chồng và bố mẹ anh G, từ cuối năm 2021 đến nay vợ chồng ly thân con sống cùng với anh G và bố mẹ anh G. Quá trình ly thân chị T không có trách nhiệm với con, không đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con, anh G chăm sóc con phát triển tốt và cho con đi học tại Trường mầm non P có địa chỉ tại xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, anh G làm công nhân may mặc tại Cơ sở sản xuất chăn ga gối nệm Kham Minh ở thôn H, xã Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, thu nhập ổn định 10.000.000đ/tháng, có nhà ở kiên cố cùng bố mẹ anh G và có thời gian chăm sóc con, đưa đón con đi học. Anh G có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu chị T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị T rút yêu cầu khởi kiện về việc chia tài sản chung anh G đồng ý.

Tại bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 02/2023/HNGĐ-ST ngày 22/3/2023 của TAND thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 56, điều 57, điều 58, điều 81, điều 82, điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Dương Văn G.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Dương Anh T3 sinh ngày 28/01/2020 cho anh Dương Văn G trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nguyễn Thị T không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T. Nếu sau này có tranh chấp thì có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 04/4/2023 chị Nguyễn Thị T kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét và hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện và thay đổi nội dung kháng cáo, yêu cầu được trực tiếp nuôi con.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh sau khi nhận xét về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán chủ tọa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các bên đương sự đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 02/2023/HNGĐ-ST ngày 22/3/2023 của TAND thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ pháp luật và thụ lý giải quyết vụ án theo thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án cấp sơ thẩm đã xác định đúng, đầy đủ tư cách của những người tham gia tố tụng.

[2] Chị Nguyễn Thị T kháng cáo trong thời hạn luật định nên được chấp nhận xem xét.

[3] Xét nội dung kháng cáo của bị đơn chị Nguyễn Thị T Hội đồng xét xử thấy rằng:

I. Về quan hệ hôn nhân: Tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh G đã mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân là xây dựng một gia đình hòa thuận, hạnh phúc không đạt được, chị T có nguyện vọng ly hôn và anh G đồng ý. Toà án cấp sơ thẩm căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận sự tự nguyện ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Dương Văn G là có căn cứ.

II. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T rút yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng và bị đơn anh Dương Văn G đồng ý nên cấp sơ thẩm đình chỉ yêu cầu chia tài sản chung là có căn cứ.

III. Về quan hệ con chung:

Vợ chồng có 01 con chung tên là Dương Anh T3, sinh ngày 28/01/2020. Hai bên đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con. Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con và yêu cầu anh G đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 02 triệu đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi trưởng thành. Anh G có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu chị T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy quyền và trách nhiệm nuôi con là nghĩa vụ chung của vợ chồng; cả anh G, chị T đều làm giờ hành chính, có mức thu nhập ổn định, có thời gian chăm sóc con; anh G có khiếm khuyết về nghe và nói, cụ thể là bị điếc và nói ngọng còn về nhận thức hoàn toàn bình thường, sinh hoạt và quan hệ xã hội hoàn toàn bình thường. Từ khi vợ chồng ly thân anh G và cha mẹ anh G chăm sóc cháu Dương Anh T3 chu đáo, Theo kết quả xác minh tại Trường mầm non P nơi cháu Dương Anh T3 theo học, cháu đi học chuyên cần, hàng ngày được đưa đón đúng giờ quy định, cháu phát triển hoàn toàn bình thường cả về thể chất lẫn tinh thần, cháu ngoan ngoãn, nhanh nhẹn, sạch sẽ, tương tác với cô giáo và các bạn tốt, các khoản học phí và chi phí khác được anh G đóng nộp đầy đủ, từ khi cháu học ở trường đến nay chị T chưa từng tiếp xúc với cô để hỏi han trao đổi về tình hình của cháu. Quá trình giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm không có tài liệu chứng cứ chứng minh việc anh G không đảm bảo được việc chăm sóc nuôi dạy con. Trong thời gian anh G một mình nuôi con thì con phát triển tốt cả về thể chất lẫn tinh thần, con được đi học đầy đủ, con đã quen với điều kiện, môi trường sống nên cấp sơ thẩm giao con chung Dương Anh T3 cho anh Dương Văn G trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp quy định tại điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp thêm được tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị T. Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tại phiên toà là phù hợp.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, bác kháng cáo của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm 02/2023/HNGĐ-ST ngày 22/3/2023 của TAND thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Căn cứ khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 56, điều 57, điều 58, điều 81, điều 82, điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Dương Văn G.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Dương Anh T3 sinh ngày 28/01/2020 cho anh Dương Văn G trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Nguyễn Thị T không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T. Nếu sau này có tranh chấp thì có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật.

4. Về án phí:

- Buộc chị Nguyễn Thị T phải chịu 75.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí 1.657.000đ đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001154 ngày 27 tháng 10 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 1.582.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp. Miễn tiền án phí ly hôn sơ thẩm cho anh Dương Văn G.

- Căn cứ khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Toà án buộc Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ án phí dân sự phúc thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0001220 ngày 10/4/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con, chia tài sản số 20/2023/HNGĐ-PT

Số hiệu:20/2023/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về