Bản án về ly hôn số 66/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 66/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 191/2022/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ: Thôn C, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn X, sinh năm 1984 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn B, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 14/4/2022, bản tự khai và các lời khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn X được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 14/7/2003 tại UBND xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn chị về chung sống cùng anh X ngay, được bố mẹ chồng cho ra ở riêng. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn.

Nguyên nhân là do: Từ năm 2012 đến nay vợ chồng chị thường xuyên sống xa nhau do cùng đi X khẩu lao động nhưng mỗi người đi một nước. Nay chị và anh X đã về hẳn nhưng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên đã sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị giải quyết cho chị được ly hôn với anh X.

Về nuôi con chung: Vợ chồng chị có 2 con chung là Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 11/5/2004 và Nguyễn Mai H, sinh ngày 29/9/2010. Cháu T đã trưởng thành, khỏe mạnh và phát triển bình thường nên chị không yêu cầu giải quyết. Cháu H hiện đang ở với anh X. Sau khi ly hôn anh X có nguyện vọng tiếp tục được nuôi con chị nhất trí.

Về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản: Vợ chồng chị tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về công nợ: Vợ chồng chị không vay nợ ai.

Anh Nguyễn Văn X vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trình bày về thời gian đăng ký kết hôn và quá trình chung sống đúng như chị T trình bày. Anh T xác định vợ chồng có mâu thuẫn nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ. Nguyên nhân là do chị T đi nước ngoài từ năm 2017 đến nay đã về hẳn, nhưng không về chung sống cùng anh mà về nhà bố mẹ đẻ ở nên vợ chồng sống xa nhau, bất đồng quan điểm, nhưng anh vẫn còn tình cảm với chị T nên chị T xin ly hôn anh không đồng ý.

Về nuôi con chung: Vợ chồng có 2 con chung đúng như chị T trình bày, cháu T đã trưởng thành, cháu H còn nhỏ, hiện các cháu đang ở với anh, anh có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con Nguyễn Mai H, sinh năm 2010, anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Vợ chồng anh không có, không yêu cầu giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký Tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, chấp hành nghiêm chỉnh, thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, anh X có đơn xin xét xử vắng mặt. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 227; Điều 228; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, xử: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn X.

Về nuôi con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn X trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Mai H, sinh năm 2010. Anh X không yêu cầu chị T cấp dưỡng nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản, công nợ các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Các đương sự đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Bị đơn là anh Nguyễn Văn X có đơn xin xét xử vắng mặt nên HĐXX căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của BLTTDS xét xử vắng mặt anh X.

[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn X được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 14/7/2003 tại UBND xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang nên hôn nhân giữa chị T và anh X là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, hai bên không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và sống ly thân từ năm 2012 đến nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn và tha thiết xin ly hôn. Anh X không đồng ý ly hôn nhưng anh X cũng xác nhận vợ chồng có mâu thuẫn và đã sống ly thân. Điều đó chứng tỏ cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh X đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn X.

Về nuôi con chung: Chị T và anh X có 02 con chung là Nguyễn Thị Thanh T, sinh ngày 11/5/2004, cháu T đã trưởng thành, khỏe mạnh và phát triển bình thường, chị T và anh X không yêu cầu giải quyết. Cháu Nguyễn Mai H hiện đang ở với anh X. Sau khi ly hôn chị T và anh X thống nhất để anh T nuôi cháu H, mặc dù nguyện vọng của cháu H muốn được ở với chị T nhưng do chị T hiện nay không có nhà ở phải đi ở nhờ, mặt khác cháu T và cháu H ở với bố và bà nội từ bé, được nuôi ăn học đầy đủ nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu H cần căn cứ các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giao cháu H cho anh X nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng: Vợ chồng chị T, anh X tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về tài sản và công nợ: Chị T và anh X đều trình bày không có, không đề nghị giải quyết.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 24, 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án. Chị T là nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ điều 28, điều 35, điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, 26, 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn X,

2. Về nuôi con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn X trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Mai H, sinh ngày 29/9/2010. Chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền này.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ chị T đã nộp tạm ứng án phí tại Biên lai thu số 0013703 ngày 21/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho đương sự có mặt biết, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về ly hôn số 66/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:66/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về