Bản án về ly hôn số 60/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 60/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/10/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 04/2022/TLST-HNGĐ ngày 14/01/2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 2275/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 219/QĐST-HNGĐ ngày 14/10/2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Đặng Ngọc D, sinh năm 1966 Nơi ĐKNKTT và chổ ở hiện nay: Thôn P, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình, có mặt;

Bị đơn: Chị Trần Thị C (Trần Thị Kim C1), sinh năm 1976 Nơi ĐKNKTT trước khi xuất cảnh: Thôn P, xã Đ, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Hiện cư trú tại: 724-8-4.TAMAN-BUNGA-MERAH JALAN-SUNGAI-DUA 11900 FENAMG-WEST MALAYSIA. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn anh Đặng Ngọc D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh D và chị C1 xây dựng gia đình tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 12/01/1995 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống với nhau hạnh phúc đến năm 2003, vợ chồng bàn bạc làm thủ tục cho chị C1 đi xuất khẩu lao động tại Malaysia cho đến nay, thời gian đầu chị C1 thường xuyên liên lạc về thăm hỏi động viên chồng con. Năm 2006 chị C1 có về Việt Nam được 01 tuần thì tiếp tục sang lại Malaysia, từ đó vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do chị C1 không hề quan tâm đến chồng con và không liên lạc gì về cho anh. Năm 2007 anh D đi xuất khẩu lao động tại Nga đến năm 2017 thì về Việt Nam nhưng vợ choofng vẫn không liên lạc gì với nhau. Nay anh thấy tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị C1. Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung tên là Đặng Thị Thúy L, sinh ngày 14/4/1997. Hiện con đã trưởng thành, tự lập không phụ thuộc vào bố mẹ.

Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Trần Thị C1 hiện đang sinh sống tại Malaysia: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tiến hành các phương thức tống đạt, thông báo văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật đối với bị đơn chị C1, nhưng không có kết quả. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình cũng đã thông báo về thời gian, địa điểm mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn giữa anh D và chị C1 trên kênh phát thanh dành cho người Việt Nam ở nước ngoài - Đ tiếng nói Việt Nam (VOV5) nhưng vẫn không có tin tức gì của chị C1. Chị Trần Thị X, sinh năm 1965 là chị gái của chị C1 có ý kiến: Bố mẹ chị đã mất nên chị thay mặt gia đình trình bày quan điểm về việc ly hôn giữa em gái và em rể. Em tôi và em rể kết hôn vào ngày 12/01/1995, trong quá trình chung sống giữa các em có xảy ra cãi vã nhau, hiện tại em gái đang sống tại Malaysia, hai vợ chồng không còn tình cảm gì. Em gái có liên lạc bằng điện thoại nói là đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án ly hôn với em rể Đặng Ngọc D và mong muốn Tòa án sớm giải quyết ly hôn để hai bên ổn định cuộc sống; con chung có 01 đứa đã trưởng thành; Tài sản chung, nợ chung không có.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết, xét xử vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong vụ án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Việc thu thập chứng cứ đảm bảo đúng quy định, đảm bảo quyền lợi của các đương sự. Đề nghị Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn, xử cho anh Đặng Ngọc D được ly hôn chị Trần Thị C1, về con chung: đã trưởng thành nên không xem xét; về tài sản chung và nợ chung: không xem xét; đương sự chịu án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý của nguyên đơn, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát phát biểu tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo Công văn số 8778/QLXNC-P5, ngày 04/5/2022 của Cục Q - Bộ C2 thì chị Trần Thị Kim C1 đã xuất cảnh ra nước ngoài từ ngày 27/5/2003, lần xuất cảnh gần nhất là ngày 18/3/2019, hiện chưa có thông tin nhập cảnh về nước; Theo quy định tại khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

- Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án theo phương thức tống đạt đến C3 tại Malaysia để tống đạt và thu thập chứng cứ đối với chị Trần Thị C1 (Trần Thị Kim C1) và đăng tin trên kênh phát thanh dành cho người Việt Nam ở nước ngoài - Đ (VOV5) theo quy định tại khoản 1 Điều 474, Điều 475 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng không có kết quả. Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Trần Thị C1 (Trần Thị Kim C1).

[2] Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy anh Đặng Ngọc D và chị Trần Thị C1 (Trần Thị Kim C1) tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện B, Quảng Bình nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo như anh D trình bày, quá trình chung sống với nhau hai vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2003 thì chị C1 đi xuất khẩu lao động tại Malaysia, thời gian đầu vợ chồng có thông tin, liên lạc và quan tâm lẫn nhau nhưng từ năm 2006 thì chị C1 không hề liên lạc gì với gia đình và không quan tâm đến chồng con. Anh D khẳng định tình cảm vợ chồng không còn nên kiên quyết xin được ly hôn. Xét thấy, đời sống chung của vợ chồng anh D, chị C1 không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị anh Đặng Ngọc D được ly hôn chị Trần Thị C1 (Trần Thị Kim C1).

[2.2]. Về quan hệ con chung: Vợ chồng có một con chung tên là Đặng Thị Thúy L, sinh ngày 14/4/1997 đã trưởng thành, tự lập nên không xem xét.

[2.3]. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí, lệ phí tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài: Anh D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí và 3.180.000 đồng lệ phí tống đạt văn bản tố tụng ra nước ngoài và đăng thông tin (đã nộp đủ tại Tòa án).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; Điều 147, Điều 153; các Điều 228, Điều 469, 474, 475; điểm a khoản 5 Điều 477; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án;

Áp dụng Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đặng Ngọc D được ly hôn chị Trần Thị C1 (Trần Thị Kim C1)

2. Về quan hệ con chung: Anh D, chị C1 có một con chung tên là Đặng Thị Thúy L, sinh ngày 14/4/1997 đã trưởng thành, tự lập nên không xem xét.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không ai có yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí, lệ phí: Anh D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng được khấu trừ số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án tại biên lai số 31AA/2022/0004881 ngày 12/01/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Anh D phải chịu 3.180.000 đồng tiền lệ phí tống đạt văn bản tố tụng (đã nộp đủ tại Tòa án).

5. Án sơ thẩm xử công khai, anh D có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án; chị C1 có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày bản án sơ thẩm được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 60/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:60/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về