Bản án về ly hôn số 27/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 27/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 94/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2021 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2 0 2 1 /QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1993;

Nơi ĐKHKTT: Thôn VB, xã MTr, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn DC, xã LS, h. Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Nh, sinh năm 1992;

Nơi cư trú: Thôn VB, xã MTr, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội. Có mặt chị Th, vắng mặt anh Nh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 26/02/2021 và các lời khai tiếp theo cũng như trong quá trình xét xử, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thúy trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn Nh tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn ngày 13/11/2013 tại trụ sở UBND xã MTr, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, anh chị sống cùng bố mẹ anh Nh ở thôn VB, xã MTr, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 7/2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Nh thường xuyên đi chơi qua đêm và có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, không quan tâm chăm sóc gia đình, chị đã khuyên nhủ rất nhiều nhưng anh Nh không thay đổi. Anh chị đã được gia đình hòa giải nhưng không thành. Tháng 9/2014, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, chị đã mang con về sống cùng bố đẻ ở xã LS, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Trong thời gian ly thân, mẹ chồng chị đến thăm mẹ con chị một lần, còn anh Nh không quan tâm, hỏi han hay liên lạc gì với mẹ con chị. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nh.

Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là Nguyễn Thảo N, sinh ngày 03/8/2014. Ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng cháu N, vì từ năm 2014 đến nay, chị là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu N, anh Nh không quan tâm gì đến con. Hiện chị đang bán hàng ăn tại chợ M thuộc xã LS, Lập Thạch, Vĩnh Phúc, thu nhập bình quân là 5.000.000 đồng/tháng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp, công sức đóng góp: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị xác định vợ chồng không có nợ chung.

* Bị đơn là anh Nguyễn Văn Nh: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và nhiều lần triệu tập anh Nh đến trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội để cung cấp lời khai về nội dung vụ án cũng như trình bày quan điểm đối với các yêu cầu khởi kiện của chị Th, nhưng anh Nh đều vắng mặt không có lý do. Đồng thời, Tòa án đã phối hợp với Chính quyền địa phương đến nơi cư trú của anh Nh ở VB, MTr, Sóc Sơn để làm việc trực tiếp với anh Nh nhưng anh vắng nhà nên Tòa án không lấy được lời khai của anh Nh.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại gia đình của anh Nh, bà Nguyễn Thị Ng, mẹ đẻ của anh Nh cho biết: Anh Nh hiện đang sống cùng vợ chồng bà tại thôn VB, xã MTr, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Năm 2013, gia đình bà tổ chức cưới hỏi cho anh Nh, chị Th theo phong tục, tập quán của địa phương. Sau khi kết hôn chị Th về làm dâu và chung sống cùng gia đình bà, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian ngắn sau đó phát sinh mâu thuẫn do anh chị bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, gia đình bà đã hòa giải cho anh chị nhưng không có kết quả. Đến khoảng tháng 9/2014, anh chị mâu thuẫn gay gắt, chị Th nói không thể tiếp tục chung sống với anh Nh nên đã mang con về nhà bố mẹ đẻ sống. Gia đình bà cũng đã lên thăm cháu và đón chị Th nhưng chị Th không về, anh chị sống ly thân từ đó đến nay, hai bên không quan tâm, liên lạc gì với nhau. Nay chị Th xin ly hôn anh Nh, bà đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn để cả hai sớm ổn định cuộc sống.

Về con chung: Anh Nh và chị Th có 01 con chung là Nguyễn Thảo N, sinh ngày 03/8/2014. Nếu anh chị ly hôn, do anh Nh làm tự do, đi sớm về khuya nên không không có điều kiện chăm sóc con nên bà đề nghị Tòa án giao cháu N cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng để đảm bảo cho cháu cuộc sống ổn định.

Vể tài sản và các vấn đề khác của anh chị, bà không nắm được.

Đối với các văn bản tố tụng của Tòa án giao cho anh Nh, bà đã giao lại cho anh đầy đủ, nhưng anh Nh bận đi làm nên không đến Tòa án làm việc.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết; xác định đúng quan hệ pháp luật, thụ lý vụ án, mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tiến hành thu thập tài liệu chứng cứ đầy đủ và đúng quy định pháp luật; thời hạn giải quyết vụ án được bảo đảm; Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ, phiên tòa diễn ra đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, 35, 39 và khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Chấp nhận yêu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th. Cho chị Nguyễn Thị Th được ly hôn với anh Nguyễn Văn Nh.

- Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thảo N, sinh ngày 03/8/201 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác của Tòa án.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyên của chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nh được quyền thăm và chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

- Về án phí: chị Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, trên cơ sở ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Văn Nh đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại thôn VB, xã MTr, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội giải quyết vụ án này là đúng thẩm quyền.

Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Nguyễn Văn Nh nhưng tại phiên tòa hôm nay, anh Nh vắng mặt không lý do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh Nh.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Nh kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MTr, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận kết hôn số 108/2013 ngày 13/11/2013. Hôn nhân giữa chị Th, anh Nh là hợp pháp.

Căn cứ lời khai của chị Th cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc được hơn một năm thì phát sinh mâu thuẫn, do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, vợ chồng thiếu sự đồng cảm, chia sẻ và quan tâm, chăm sóc nhau dẫn đến thường xuyên cãi vã, không khí gia đình căng thẳng, mệt mỏi. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 9/2014 đến nay, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc gì nhau. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải và nhiều lần triệu tập anh Nh nhưng anh Nh đều vắng mặt, thể hiện thái độ bỏ mặc, không mong muốn hàn gắn quan hệ vợ chồng. Đồng thời qua xác minh tại địa phương, nơi anh chị cư trú thấy rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th đối với anh Nh là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[2] Về con chung: chị Th, anh Nh có 01 con chung là Nguyễn Thảo N, sinh ngày 03/8/2014.

Xét yêu cầu xin nuôi con của chị Th, Hội đồng xét xử thấy: Chị Th có nơi cư trú và thu nhập ổn định để đảm bảo cuộc sống của bản thân và nuôi con. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án không lấy được lời khai của anh Nh nên không xác định được quan điểm của anh Nh về vấn đề con chung. Tuy nhiên căn cứ vào điều kiện thực tế của anh chị cũng như để đảm bảo sự phát triển tốt nhất cả về thể chất lẫn tinh thần cho con, tránh những xáo trộn không cần thiết ảnh hưởng đến tâm lý trẻ, Hội đồng xét xử thấy rằng, cháu N là con gái, cần có sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ, đồng thời cháu đang sống ổn định cùng chị Th. Vì vậy nên giao cháu N cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình quy đinh về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận sự tự nguyện của chị Th.

[3] Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp, nợ, công sức đóng góp: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của tại Điều 143, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 51, 56, 81, 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điều 143, 147, 227, 267, 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Điều 25, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Th. Cho chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Văn Nh.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thảo N, sinh ngày 03/8/2014 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có quyết định khác có hiệu lực pháp luật của Tòa án thay thế.

Ghi nhận sự tự nguyện của chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.

Anh Nh được quyền thăm và chăm sóc con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, đất sản xuất nông nghiệp, nợ và công sức đóng góp: Ghi nhận sự tự nguyện của chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Th phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0019492 ngày 01/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

5. Về quyền kháng cáo: chị Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Nh có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 27/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:27/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về