Bản án về ly hôn số 17/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ LY HÔN 

Ngày 20 tháng 8 năm 2021 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 148/2021/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2021 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2021/QĐXXST – HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Gia M, sinh năm 1940; địa chỉ: Khu phố N, Phường B, thị xã Q, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

2. Bị đơn: Bà Lê Thị M1, sinh năm 1962; địa chỉ: Số 76 N, Khu phố B, Phường M, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 01/7/2021 , trong các phiên hòa giải, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Lê Gia M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Gia M và bà Lê Thị M1 đăng ký kết hôn ngày 18/5/2020 tại UBND Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị (GCNKH số 57, quyển số 01 ngày 18/5/2020). Sau khi kết hôn, ông bà không chung sống với nhau. Ông M sinh sống cùng các con ở thị xã Quảng Trị, còn bà M1 sinh sống cùng em trai ở Khu phố B, Phường M, thành phố Đ. Hai người ít gặp nhau, kinh tế không phụ thuộc vào nhau. Thời gian đầu, Ông M có đi lại quan tâm đến bà M1, nhưng về sau Ông M nhận thấy tình cảm không còn, tuổi cao sức yếu, việc đi lại thăm nom càng khó khăn hơn. Việc mỗi người sống mỗi nơi đã hạn chế đến việc chăm sóc, chia sẻ giữa Ông Bà. Bản thân Ông M tuổi đã cao, trên 80 tuổi, không còn khả năng lao động, phải sống nương tựa vào các con, không thể có điều kiện xây dựng một mái nhà riêng để sống cùng bà M1, cũng như không thể mang đến cho bà M1 một cuộc sống đầy đủ ấm no cả về vật chất lẫn tinh thần như bà M1 mong muốn. Mục đích hôn nhân không đạt được nên Ông M tha thiết yêu cầu Tòa án giải quyết cho Ông được ly hôn bà M1 để ổn định tuổi già.

Về con chung: Không có con chung.

Về tài sản chung: Ông Lê Gia M không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản trình bày ý kiến đề ngày 16/7/2021, ngày 19/7/2021, ngày 17/8/2021, tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa, bị đơn bà Lê Thị M1 trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà M1 xác nhận Ông M và bà M1 có đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, ông bà không chung sống với nhau như Ông M trình bày là đúng. Ban đầu Ông M mỗi tuần ra thăm bà M1 một lần, về sau có khi hai hoặc ba tháng Ông M mới ra thăm bà M1 một lần. Ngoài ra, bà M1 cho rằng Ông M có người phụ nữ khác, không chung thủy với bà M1.

Tại phiên tòa, bà M1 trình bày, trong những ngày tết cổ truyền bà mong muốn được cùng với Ông M đón tết, nhưng Ông Bà vẫn không thực hiện được. Ông M đón tết cùng với ai, ở đâu Bà không hay biết. Mặc dù, Ông M đã có người phụ nữ khác, không quan tâm, yêu thương bà M1 nhưng Ông M đã kết hôn với Bà thì phải có trách nhiệm cùng sống chung yêu thương, bà M1 không đồng ý ly hôn. Bà M1 yêu cầu Ông M phải xây dựng một ngôi nhà riêng để bà M1 đến sống cùng với Ông M.

Về con chung: Không có con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà phát biểu quan điểm: Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của ông Lê Gia M là đúng thẩm quyền. Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Thẩm phán đã thực hiện đảm bảo về trình tự thủ tục tố tụng theo quy định; tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng trình tự; người tham gia tố tụng nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Gia M về việc xin ly hôn bà Lê Thị M1.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bà Lê Thị M1 đang trú tại Khu phố B, Phường M, thành phố Đ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử thấy:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Gia M và bà Lê Thị M1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị cấp giấy chứng nhận kết hôn số 57 quyển số 01/2020 ngày 18/5/2020. Đây là hôn nhân hợp pháp. Từ sau khi kết hôn đến nay, Ông M bà M1 không hề sống chung với nhau. Ông M hiện đang ở cùng với các con ở Thị xã Quảng Trị, bà M1 sống chung với anh Lê Văn N là em trai tại Khu phố B, Phường M, thành phố Đ. Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương và được biết, các ý kiến trình bày của đương sự là đúng. Việc ông bà không chung sống với nhau dẫn đến Ông Bà không thể thực hiện nghĩa vụ thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Hơn thế nữa, bà M1 không tin tưởng Ông M, nghi ngờ Ông M không chung thủy với Bà. Bà M1 không đồng ý ly hôn và đề nghị Ông M phải xây dựng một căn nhà để Ông Bà có thể sống chung với nhau. Ông M cho rằng, nay Ông đã tuổi cao, không còn khả năng lao động, bản thân ông phải nhờ các con chăm sóc, nuôi dưỡng, kinh tế phải phụ thuộc các con, không thể đáp ứng yêu cầu xây dựng một mái nhà riêng để cùng với bà M1 chung sống. Giải pháp mà bà M1 đề nghị Ông M đáp ứng để tiếp tục kéo dài cuộc hôn nhân của Ông Bà là không thể thực hiện được. Hội đồng xét xử thấy rằng, tình trạng hôn nhân giữa ông Lê Gia M với bà Lê Thị M1 mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của ông Lê Gia M, xử cho Ông M được ly hôn bà Lê Thị M1.

- Về con chung: Ông Lê Gia M và bà Lê Thị M1 không có con chung.

-Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Về án phí: Ông Lê Gia M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a Khoản 1 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên:

- Về quan hệ hôn nhân, xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho ông Lê Gia M được ly hôn bà Lê Thị M1.

- Về án phí: Ông Lê Gia M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0001221 ngày 02/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà. Ông M đã nộp đủ án phí.

- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

361
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 17/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về