Bản án về ly hôn số 13/2024/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN LÃNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 13/2024/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2024 VỀ LY HÔN

Ngày 11 tháng 3 năm 2024, tại Toà án nhân dân huyện T, thành phố H mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 122/2023/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 12 năm 2023 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2024 (Quyết định hoãn phiên toà số 09/2024/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2024) giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị M, sinh năm 20xx; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện V, thành phố H, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Đặng Đình T, sinh năm 19xx, nơi cư trú: Thôn D, xã T, huyện T, thành phố H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn là chị Đoàn Thị M trình bày:

Chị Đoàn Thị M và anh Đặng Đình T kết hôn với nhau tự nguyện tại Uỷ ban nhân dân xã T ngày 19 tháng 3 năm 2019. Quá trình chung sống, anh chị sống hạnh được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh chị thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng chị M đã được hai bên gia đình hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng anh chị đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2021 đến nay, không quan tâm đến nhau. Nhận thấy vợ chồng không thể đoàn tụ, chị M yêu cầu được ly hôn anh T. Anh chị có 01 con chung là Đặng Gia H, sinh ngày 19 tháng 02 năm 2020. Từ khi anh chị sống ly thân đến nay con chung do anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị M đề nghị Toà án giao con cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng cho con và tài sản chung, chị M tự thoả thuận với anh T, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Quá trình giải quyết vuán bị đơn (anh Đặng Đình T) khai, xác nhận về thời gian kết hôn, thời điểm sống ly thân, về con chung, về tài sản chung là hoàn toàn đúng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị M mâu thuẫn với chị gái anh T và còn giữ liên lạc với người yêu cũ, khi anh T khuyên giải thì chị M phủ nhận sự việc. Ngày 29/5/2021, chị M tự bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Mặc dù anh chị sống ly thân, không quan tâm đến nhau từ năm 2021 đến nay nhưng anh T không đồng ý ly hôn chị M vì anh theo đạo thiên chúa. Trường hợp phải ly hôn anh nhận trực tiếp nuôi con Đặng Gia H sinh ngày 19/02/2020. Việc cấp dưỡng cho con và tài sản chung anh xin tự giải quyết với chị M, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tài liệu xác minh tại gia đình và địa phương thể hiện: Anh T và chị M có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T theo quy định của pháp luật. Anh chị sống hoà thuận đến năm 2021 thì chị M tự ý bỏ nhà đi từ đó đến nay không về địa phương, từ đó đến nay anh chị sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Anh chị có 01 con chung như đương sự trình bày, từ khi anh chị sống ly thân đến nay cháu H do anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc tốt; ngoài ra anh T còn được sự hỗ trợ của gia đình trong việc chăm sóc cháu Huy. Hiện anh T, chị M đều làm công nhân, thu nhập ổn định.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Thẩm phán đã thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về việc thu thập được chứng cứ, tài liệu, mở phiên họp, hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng quy định về thẩm quyền, thời hạn, trình tự, thủ tục tố tụng; phiên toà được mở đúng thời hạn, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không tham gia tố tụng tại Toà án, vắng mặt tại phiên tòa không có lý do là thực hiện chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị M, xử cho chị Đoàn Thị M được ly hôn anh Đặng Đình T; giao con Đặng Gia H, sinh ngày 19 tháng 02 năm 2020 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng cho con và tài sản chung, anh chị tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét, giải quyết. Chị M phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Thị M thì quan hệ pháp luật trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, anh Đặng Đình T là bị đơn, hiện đang cư trú tại: Thôn D, xã T, huyện T, thành phố H nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn (chị M), vắng mặt tại phiên toà nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn (anh T) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ khoản 2 Điều 227 và các khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt chị M, anh T.

- Về nội dung:

[3] Quan hệ hôn nhân giữa chị Đoàn Thị M và anh Đặng Đình T được xác lập từ ngày 19 tháng 3 năm 2019 là hôn nhân hợp pháp. Nay chị M xin ly hôn nhưng anh T không đồng ý ly hôn chị M. Xét thấy, quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Mâu thuẫn đã được hai bên gia đình hoà giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Anh chị đã sống ly thân nhau đã lâu (từ tháng 05 năm 2021 đến nay), không quan tâm đến nhau. Mặc dù anh T không đồng ý ly hôn nhưng không có giải pháp nào để vợ chồng về đoàn tụ; chị M xác nhận chị không còn tình cảm với anh T, không đồng ý đoàn tụ. Như vậy, có đủ căn cứ xác định, tình trạng hôn nhân của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được; yêu cầu ly hôn của chị M là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần được chấp nhận, xử cho chị M được ly hôn anh T.

[4] Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Đặng Gia H, sinh ngày 19 tháng 02 năm 2020. Từ khi anh chị sống ly thân đến nay, cháu H do anh T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc tốt. Chị M và anh T đều có quan điểm để anh T trực tiếp nuôi cháu H sau khi ly hôn. Xét thấy, chị M, anh T không tranh chấp với nhau về người trực tiếp nuôi con khi ly hôn; anh T có việc làm và thu nhập ổn định đủ điều kiện nhận trực tiếp nuôi con; ngoài việc trực tiếp nuôi con anh T còn được sự hỗ trợ từ gia đình trong việc chăm sóc cháu H. Xét thấy, để ổn định tâm lý, sinh hoạt, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M, xử giao con Đặng Gia H, sinh ngày 19 tháng 02 năm 2020 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng.Việc cấp dưỡng cho con, anh chị xin tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Chị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 91; khoản 1 Điều 96; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 266; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Thị M được ly hôn anh Đặng Đình T.

2. Về con chung: Giao con Đặng Gia H, sinh ngày 19 tháng 02 năm 2020 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng cho con, anh chị tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Đoàn Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị M đã nộp đủ 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số 0008902 ngày 13 tháng 12 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Các đương sự vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 13/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Lãng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về