Bản án về ly hôn số 13/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 13/2024/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 834/2023/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2023 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2023/QĐXX- ST ngày 18 tháng 01 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 13/2023/QĐST- HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hoàng Thu Th, sinh năm: 1980; địa chỉ: số 01, đường L, Phường 3, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt

2. Bị đơn: Ông Đỗ Xuân N, sinh năm: 1975; địa chỉ: số 01, đường L, Phường 3, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Hoàng Thu Th trình bày: Bà và ông Đỗ Xuân kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn năm 2001 tại Uỷ ban nhân dân xã Liên Hiệp, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại xã Liên Hiệp, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng, hôn nhân hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do ông N bỏ bê gia đình, không phụ giúp kinh tế cũng như không chăm lo cho con cái. Ngoài ra còn có hành vi bạo hành, xúc phạm đối với bà, sự việc này bà có nhờ chính quyền can thiệp, hoà giải nhưng cũng không có kết quả, thực tế thì vợ chồng đã sống ly thân trong thời gian từ năm 2012 cho đến năm 2015, đến năm 2016 vợ chồng quay về đoàn tụ và chuyển lên thành phố Đ sinh sống, tuy nhiên mối quan hệ hôn nhân cũng không có nhiều thay đổi và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, thường xuyên cãi vã ảnh hưởng đến con cái và mọi người xung quanh, khi xảy ra mâu thuẫn, bà có nhờ hội phụ nữ, tổ trưởng dân phố và chính quyền địa phương Phường 3, thành phố Đ tác động, can thiệp và hoài giả nhưng không có kết quả. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông N vì mâu thuẫn giữa bà và ông N đã ở mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông N để có thể giải thoát được cuộc tình trạng bế tắc của hôn nhân.

Về con chung: bà xác nhận vợ chồng có 02 người con chung gồm cháu Đỗ Hoàng A1, sinh ngày: 14-02-2002; cháu Đỗ Hoàng A2, sinh ngày: 04-7-2009. Khi ly hôn, đối với cháu Đỗ Hoàng Anh, hiện đã trên 18 tuổi, thể chất và sức khoẻ phát triển bình thường nên không có ý kiến gì liên quan đến việc trực tiếp nuôi dưỡng. Riêng cháu Đỗ Hoàng An bà đề nghị giao cho bà trực tiếp nuôi, yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000 đồng.

Về tài sản chung: bà Th đề nghị tự thoả thuận, về nợ chung bà Th xác nhận không có.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành việc tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn ông Đỗ Xuân N nhưng sau thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án thì ông Đỗ Xuân N không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thu Th, đồng thời không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh bảo vệ quyền lợi cho mình. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 28-12-2023, bị đơn ông Đỗ Xuân N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, trong khi đó bà Hoàng Thu Th có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Riêng đối với phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ Tòa án tiến hành vắng mặt ông Đỗ Xuân N theo thủ tục chung, sau đó đã thông báo kết quả cho ông Đỗ Xuân N không có ý kiến phản hồi.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Hoàng Thu Th giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn đối với ông Đỗ Xuân N. Bị đơn ông Đỗ Xuân N đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, các đương sự và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án. Về quan điểm giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thu Th, cho bà bà Hoàng Thu Th ly hôn với ông Đỗ Xuân N. Về con chung: Giao con chung là cháu Đỗ Hoàng An, sinh ngày: 04-7-2009 cho bà Hoàng Thu Th trực tiếp nuôi dưỡng, ông Đỗ Xuân N có nghĩac vụ cấp dưỡng nuôi con là 1.500.000 đồng/ tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Về tài sản chung: tự thoả tuận, về nợ chung: không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: tại phiên tòa hôm nay bị đơn ông Đỗ Xuân N đã được triệu tâp hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Đỗ Xuân N theo quy định tại điểm b, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: theo Giấy chứng nhận kết hôn đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã Liên Hiệp, huyện Đức Trọng vào năm 2001; lời khai của bà Hoàng Thu Th đã đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa bà Hoàng Thu Th và ông Đỗ Xuân N là hôn nhân hợp pháp. Qua xem xét thấy rằng, cuộc sống hôn nhân giữa bà Th và ông N tồn tại nhiều mâu thuẫn nên năm 2017 bà Th đã từng gửi đơn xin ly hôn đối với ông N, do không muốn ảnh hưởng đến tâm lý của con nên bà đã rút đơn xin ly hôn. Tuy nhiên, hệ hôn nhân cũng không có nhiều thay đổi và mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn, thể hiện qua việc thường xuyên cãi, xô xát ảnh hưởng đến con cái và mọi người xung quanh, khi phát sinh mâu thuẫn bà Th có nhờ hội phụ nữ, tổ trưởng dân phố và chính quyền địa phương Phường 3, thành phố Đ tác động, can thiệp và hoà giải nhưng không có kết quả. Thực tế, thời điểm hiện nay bà Th và ông N mặc dù chung sống nhưng ông N thường xuyên vắng nhà, không có sự quan tâm chia sẻ gì đối với bà Th trong kinh tế và công việc gia đình, mạnh ai nấy sống cho thấy ông N đã không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ vợ chồng, vi phạm nguyên tắc tình nghĩa vợ chồng quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình. Như vậy, đã có đủ cơ sở khẳng định quan hệ hôn nhân giữa hai bên đã ở mức mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng không còn. Bà Th có nguyện vọng ly hôn, Toà án đã thông báo cho ông N được biết sự việc này theo thủ tục chung nhưng ông N không có ý kiến gì cho thấy ông N không còn quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân giữa hai bên, do đó cần căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho bà Th được ly hôn với ông N.

[3] Về con chung: bà Th xác nhận vợ chồng có 02 người con chung gồm anh Đỗ Hoàng A1, sinh ngày: 14-02-2002 và anh Đỗ Hoàng A2, sinh ngày: 04-7-2009, lời xác nhận phù hợp với giấy khai sinh do bà Hoàng Thu Th xuất trình nên có cơ sở khẳng định giữa bà Hoàng Thu Th và ông Đỗ Xuân N có 02 người con chung như đã nêu tên ở trên. Qua xem xét thì thấy, hiện tại thì anh Đỗ Hoàng A1, sinh ngày: 14-02-2002 đã trưởng thành, sức khỏe và thể chất phát triển bình thường nên không cần đề cập đến vấn đề trực tiếp nuôi con. Riêng anh Đỗ Hoàng A2, sinh ngày: 04-7-2009 hiện đang sinh sống và do bà Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng khi ông N thường xuyên vắng nhà, thể chất và sức khoẻ phát triển tốt; bản thân anh Đỗ Hoàng An có nguyện vọng được bà Th trực tiếp nuôi dưỡng, do đó để đảm bảo quyền lợi của anh Đỗ Hoàng An về mọi mặt, cần giao anh Đỗ Hoàng An cho bà Th trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng: bà Th yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con với số tiền 1.500.000 đồng/tháng, xét yêu cầu của bà Th là phù hợp với thu nhập bình quân ở địa phương và như nhu cầu thiết yếu của con nên buộc ông N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi còn với số tiền 1.500.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng kể từ ngày 01-3-2024.

[4]Về tài sản cung: bà Hoàng Thu Th khai nhận sẽ tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giản quyết. Về nợ chung: Bà Th xác nhận không có. Trong khi đó, ông Đỗ Xuân N không có ý kiến gì về các nội dung này nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: bà Hoàng Thu Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu xin ly hôn; ông Đỗ Xuân N phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo định kỳ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thu Th về việc “Ly hôn”. Giải quyết cho bà Hoàng Thu Th được ly hôn với ông Đỗ Xuân N.

2. Về con chung:

2.1. Giao con chung là anh Đỗ Hoàng A2, sinh ngày: 04-7-2009 cho bà Hoàng Thu Th trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Đỗ Xuân N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi con 1.500.000 đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày 01- 3-2024.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2.2. Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí:

3.1. Bà Hoàng Thu Th phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số:

0000068 ngày 15-11-2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ.

3.2. Ông Đỗ Xuân N phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con định kỳ.

4. Về nghĩa vụ thi hành án:

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 13/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về