Bản án về ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 07 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 457/2021/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 34/2022/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

Ngun đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm: 1956;

Nơi cư trú: Tổ B Thôn B, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. (có mặt)

 Bị đơn: Bà Đinh Thị S, sinh năm: 1958;

Nơi cư trú: 171 đường C, phường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/9/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Thanh H trình bày thì: ông H và bà Đinh Thị S kết hôn năm 1979, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C cũ (nay là Ủy ban nhân dân phường Đ), thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng nhưng giấy chứng nhận kết hôn đã bị thất lạc. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại nhà riêng ở đường P, phường B, thành phố Đ từ năm 1979 đến năm 1987. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng có những bất đồng về quan điểm, lối sống nên thường xuyên xảy ra cãi vã, vợ chồng cũng cố gắng khắc phục nhưng vẫn không được nên ông H đã ra ngoài sống riêng và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 1987 đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì đến nhau nữa. Nay ông H xác định vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên yêu cầu được ly hôn với bà S.

- Về con chung: Ông H, bà S có 01 con chung là chị Nguyễn Thị Liên H1, sinh ngày 25/12/1979.

- Về tài sản chung: ông H tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản chung.

- Về nợ chung: ông H xác định không có.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà S đã được Toà án thông báo và tống đạt hợp lệ nhưng bà S không đến Toà và cũng không cung cấp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của ông H nên Toà án không thu thập được ý kiến cũng như lời khai của bà S và không tiến hành hoà giải được.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông H xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, sống ly thân đã quá lâu, không còn khả năng hàn gắn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với bà S. Vợ chồng có 01 con chung đã trưởng thành. Ông H không yêu cầu giải quyết về tài sản chung và xác định vợ chồng không có nợ chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý cũng như giải quyết vụ án, thì Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, bị đơn bà S đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là bảo đảm theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét mâu thuẫn giữa ông H và bà S có xảy ra trong thực tế và đã trầm trọng. Vợ chồng sống đã sống ly thân từ năm 1987 cho đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn khả năng hàn gắn. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông H. Cho ông H và bà S ly hôn. Vợ chồng có 01 con chung đã trưởng thành. Về tài sản chung ông H không yêu cầu giải quyết, về nợ chung không có nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Toà án đã tống đạt hợp lệ lần thứ hai đối với bị đơn bà Đinh Thị S để tham gia phiên toà sơ thẩm, tuy nhiên bà S vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy theo các tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ và trình bày của nguyên đơn ông Nguyễn Thanh H thì ông H và bà Đinh Thị S kết hôn năm 1979 trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường C cũ (nay là Ủy ban nhân dân phường Đ), thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng nhưng giấy chứng nhận kết hôn bị thất lạc. Theo Công văn số 1071/UBND ngày 18/10/2021 của Uỷ ban nhân dân phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng thì hiện nay Uỷ ban nhân dân phường Đ chỉ lưu hồ sơ kết hôn từ năm 1987 đến nay nên không có hồ sơ kết hôn của ông Nguyễn Thanh H và bà Đinh Thị S, đồng thời Uỷ ban nhân dân phường Đ có cung cấp cho Toà án 01 bản sao giấy khai sinh của bà Nguyễn Thị Liên H1, sinh ngày 25/12/1979 thể hiện họ tên người cha là Nguyễn Thanh H, sinh năm 1956 và họ tên người mẹ là Đinh Thị S, sinh năm 1958 nên có căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa ông H và bà S xác lập trước ngày 03/01/1987 (xác lập trước khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực) nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Vợ chồng sống hoà thuận hạnh phúc đến năm 1987 thì phát sinh mâu thuẫn do có những bất đồng về quan điểm, lối sống nên xảy ra cãi vã, vợ chồng cũng cố gắng khắc phục nhưng không được nên ông H đã ra ngoài sống riêng và vợ chồng đã sống ly thân từ năm 1987 đến nay, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Nay ông H xác định vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên yêu cầu được ly hôn với bà S. Bị đơn bà S đã được Tòa án thông báo nhiều lần nhưng vẫn không đến Tòa để hòa giải, tại phiên tòa hôm nay bà S vẫn vắng mặt không có lý do là thể hiện sự bỏ mặc, không mong muốn vợ chồng hàn gắn. Xét thấy mâu thuẫn giữa ông H và bà S là có xảy ra và đã trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân thời gian dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông H yêu cầu ly hôn bà S là có cơ sở và đề nghị của Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông H, cho ông H và bà S ly hôn.

[3] Về con chung: ông H và bà S có 01 con chung là bà Nguyễn Thị Liên H1, sinh ngày 25/12/1979.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: ông H không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản và xác định không có nợ chung, bà S cũng không có ý kiến yêu cầu gì nên không đề cập.

[5] Về án phí: Nguyên đơn ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1956 thuộc trường hợp “Người cao tuổi” theo Điều 2 Luật người cao tuổi và có đơn đề nghị miễn án phí nên được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Thanh H.

Cho ông Nguyễn Thanh H và bà Đinh Thị S ly hôn.

2. Về án phí: Nguyên đơn ông Nguyễn Thanh H được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Hoàn trả cho ông Nguyễn Thanh H số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ông H đã nộp theo biên lai thu số 0001098 ngày 12 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về