Bản án về ly hôn số 102/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 102/2023/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2023 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 532/2023/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2023 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 109/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/11/2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lương Phước T, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Số 44/28, Suối C - Xuân A, phường C, thành phố Đ, tỉnh Đ. Có mặt tại phiên toà.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Đ- là luật sư Văn phòng luật sư Th - thuộc đoàn luật sư tỉnh Đ. Có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Số 44/28, Suối C - Xuân A, phường C, thành phố Đ, tỉnh Đ. Vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu có trong hồ sơ và lời trình bày của ông Lương Phước T thì: Ông Lương Phươc Tvà bà Nguyễn Thị Tuyết M đăng kết hôn năm 1998 tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Đ, tỉnh Đ. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại số 33/3 Xuân An, phường C, thành phố Đ là nhà của bố mẹ ruột của ông T. Khoảng 03 sau thì hai vợ chồng mua đất làm nhà ở riêng, đến năm 2007 bán căn nhà của hai vợ chồng đang ở và về ở tại số 44/28 Suối Cát – Xuân An, phường C, thành phố Đ. Cuộc sống chung hạnh phúc đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn. Theo ông T nguyên nhân mâu thuẫn do bà M đánh bài bạc dẫn đến nợ nần, phải bán nhà trả nợ, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Ông đã khuyên nhủ nhiều nhưng bà M không thay đổi, ông bà chỉ sống vì con cái, không còn tình cảm vợ chồng. Ông bà vẫn chung sống cùng một nhà nhưng không còn quan tâm gì đến nhau, mỗi người ở một phòng, mạnh ai người đó sống. Nay ông nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà Nguyễn Thị Tuyết M.

Về con chung: Ông T xác định vợ chồng có 02 con chung Lương Nguyễn Khánh Ng, sinh ngày 13/3/2000 (hiện con đã thành niên và đã đi làm) và Lương Nguyễn Anh Kh, sinh ngày 13/9/2007. Ông yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên là cháu Kh cho đến khi con đủ tuổi thành niên theo quy định của pháp luật. Ông không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Ông T xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông T xác định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tư khai của bà Nguyễn Thị Tuyết M thì: Bà M và ông T đăng kết hôn năm 1998 tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Đ, tỉnh Đ. Sau khi kết hôn, vợ chồng ở tại số 119, đường Nguyễn Trung Trực, phường D, thành phố Đ, tỉnh Đ. Thời gian này vợ chồng sống không hạnh phúc. Nguyên nhân do bà làm ăn thất bại, ông T có quan hệ ngoại tình với người phụ nữ khác. Hiện tại, vợ chồng vẫn chung sống cùng với hai con nhưng đã ly thân. Nay bà yêu cầu đoàn tụ vì con cái.

Về con chung: Bà M xác định vợ chồng có 02 con chung Lương Nguyễn Khánh Ng, sinh ngày 13/3/2000 (hiện con đã thành niên và đã đi làm) và Lương Nguyễn Anh Kh, sinh ngày 13/9/2007. Bà yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên là cháu Kh. Bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tải chung: Bà M xác định có căn nhà yêu cầu để lại cho hai con. Về nợ chung: Bà M xác định không có nợ chung.

Tòa án không tiến hành hòa giải được do bà M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa.

Tại phiên tòa, ông T giữ nguyên yêu cầu Toà án giải quyết ly hôn với bà M. Yêu cầu được trực tiêp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Lương Nguyễn Anh Kh, sinh ngày 13/9/2007 cho đến khi con đủ tuổi thành niên, ông không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt.

Luật sư Nguyễn Thị Đ phát biểu ý kiến bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Vào năm 1998, sau thời gian tìm hiểu và được sự đồng ý của hai gia đình, ông T và bà M đã đi đăng ký kết hôn và sinh sống tại số nhà 33/3, đường Xuân An, phường C, thành phố Đ, tỉnh Đ. Thời gian này, ông T làm nghề xây dựng, bà M làm thợ may, cuộc sống gia đình hạnh phúc. Năm 2007, ông bà mua nhà riêng tại số 119, đường Nguyễn Trung Trực, phường D, thành phố Đ, tỉnh Đ. Tuy nhiên, thời gian này theo ông T trình bày do bà M ham mê cờ bạc dẫn đến nợ nần và ông phải bán căn nhà này để trả nợ và chuyển về sinh sống tại đường Xuân An, phường C, thành phố Đ, tỉnh Đ. Ông T đã thuê lại căn nhà này để bà M buôn bán nhưng bà M cũng không thay đổi. Cuộc sống của ông T luôn bị những người chủ nợ của bà M đến đòi nợ nên ông T rất căng thẳng. Ông T và bà M vẫn chung sống cùng nhau nhưng không còn tình cảm vợ chồng, không có sự quan tâm, chia sẻ với nhau. Do đó, ông T yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn với bà M. Về con chung: ông T và bà M có hai người con chung là cháu Lương Nguyễn Khánh Ng, sinh ngày 13/3/2000 (đã thành niên) và Lương Nguyễn Anh Kh, sinh ngày 13/9/2007. Tại biên bàn lấy lời khai của con ngày 12/10/2023 thể hiện cháu Khcó nguyện vọng ở với bố. Ông T cũng có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Kh nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho ông T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Kh. Đối với bà M đã được Toà ám triệu tập hợp lệ nhưng không đến Toà làm việc thể hiện việc bà Mkhông còn tha thiết với mối quan hệ hôn nhân này. Từ đó, căn cứ các Điều 51, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông T.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Đ phát biểu quan điểm tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà đã thực hiện đầy đủ và đúng trình tự thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Toà án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát chưa đúng theo quy định tại Điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Lương Phước T. Về con chung: Giao cho ông Lương Phước T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con là Lương Nguyễn Anh Kh, sinh ngày 13/9/2007 cho đến khi con đủ tuổi thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con do ông T không yêu cầu nên bà Mkhông phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: ông T xác định không có nên không đề nghị xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Ông Lương Phước T yêu cầu giải quyết ly hôn với bà Nguyễn Thị Tuyết M, cư trú tại: Số 44/28, Suối C - Xuân A, phường C, thành phố Đ, tỉnh Đ nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện thành phố Đ, tỉnh Đ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bà M đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện thành phố Đ tiến hành xét xử vắng mặt bà M.

[3] Về nội dung vụ án: Ông Lương Phươc T và bà Nguyễn Thị Tuyết M đăng kết hôn năm 1998 tại Ủy ban nhân dân phường C, thành phố Đ, tỉnh Đ. Hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới nên quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà Mlà hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ theo quy định tại khoản 1 Điều 8, khoản 1, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Cuộc sống chung giữa ông T và bà M hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn . Nguyên nhân theo ông T do bà M đánh bài bạc dẫn đến nợ nần, phải bán nhà trả nợ, từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Bà M cũng xác định nguyên nhân mâu thuẫn do bà làm ăn thất bại, vợ chồng thường cãi nhau, ngoài ra còn do ông T có quan hệ ngoại tình, mâu thuẫn này kéo dài trong nhiều năm không thể giải quyết. Vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án , bà M có bản tự khai yêu cầu được đoàn tụ vì con cái nhưng Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà M để bà M đến Tòa làm việc nhưng bà M đều vắng mặt không có lý do là tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ của mình, bà M biết việc ông T yêu cầu giải quyết ly hôn, bà có yêu cầu đoàn tụ nhưng cũng không có thiện chí níu kéo, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mặt khác, lý do bà M yêu cầu đoàn tụ là vì con cái chứ không phải vì vợ chồng còn tình cảm, thương yêu nhau. Xét thấy, mâu thuẫn giữa ông T và bà M là trầm trọng, phát sinh trong một thời gian dài nhưng không có biện pháp khắc phục, ông T xác định tình cảm vợ chồng không còn, có kéo dài thì cuộc sống chung cũng không hạnh phúc. Như vậy, điều kiện hàn gắn tình cảm giữa ông T và bà M là khó có thể thực hiện, mục đích hôn nhân không đạt được nên cho ông T ly hôn với bà M là phù hợp.

[4] Về con chung: Ông T xác định vợ chồng có 02 con chung Lương Nguyễn Khánh Ng, sinh ngày 13/3/2000 (hiện con đã thành niên và đã đi làm) và Lương Nguyễn Anh Kh, sinh ngày 13/9/2007. Ông T và bà Mđều có yêu cầu được nuôi dưỡng con chung chưa thành niên. Xét thấy, cháu Kh đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng ở bố nên giao cháu Kh cho ông T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Về việc cấp dưỡng nuôi con, ông T không yêu cầu bà Mcấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Ông T xác định vợ chồng không có tài sản chung; bà M xác định vợ chồng có căn nhà nhưng không trình bày cụ thể về nguồn gốc và quyền sử dụng, không có yêu cầu giải quyết đối với tài sản chung này nên không đề cập xem xét.

[6] Về nợ chung: Ông T, bà M xác định không có nên không đề cập xem xét.

[7] Về án phí: Ông T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điếu 147; khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lương Phước T. Ông Lương Phước T và bà Nguyễn Thị Tuyết M được ly hôn với nhau.

2. Về con chung: Giao con chung Lương Nguyễn Anh Kh, sinh ngày 13/9/2007 cho ông Lương Phước T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi thành niên. Bà Nguyễn Thị Tuyết M không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền thăm nom con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

2. Về án phí: Ông Lương Phước T phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) ông T đã tạm nộp theo biên lai thu số 0012029 ngày 19 tháng 7 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ, tỉnh Đ. Ông T đã nộp đủ.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ông T có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử theo trình tự phúc thẩm. Riêng bà Mvắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

20
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 102/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:102/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về