TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 10/2024/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ LY HÔN
Ngày 15 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 385/2023/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2023 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST – HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 08/2024/QĐST – HNGĐ ngày 11/3/2024 của Tòa án Lâm Hà giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thanh Kim Y, sinh năm: 1992.
Địa chỉ: thôn L, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
2. Bị đơn: anh Hoàng Đông S, sinh năm: 1990.
Địa chỉ: thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
(chị Y có mặt, anh S vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thanh Kim Y trình bày: chị và anh S xây dựng gia đình với nhau năm 2019, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hà, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc tuy có mâu thuẫn nhưng vẫn giải quyết được nhưng đến cuối năm 2021 thì cuộc sống vợ chồng không hòa thuận, không hạnh phúc xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất hòa, cãi nhau thường xuyên nguyên nhân do vợ chồng có nhiều khác biệt bất đồng về tính cách, lối sống, quan điểm sống, anh S không lo làm ăn kinh tế, thường xuyên đánh đập chị nên khoảng cách vợ chồng ngày càng nhiều. Vào tháng 02/2023 chị đã làm đơn ly hôn sau đó chị đã rút đơn để vợ chồng đoàn tụ nhưng anh S không thay đổi nên vợ chồng đã tự sống ly thân từ đầu năm 2023 cho đến nay. Vì vậy, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh S vì vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau. Về con chung, chị Y xác định vợ chồng có hai con chung là Hoàng Thiên K, sinh ngày 17/11/2019 và Hoàng Thiên Đ, sinh ngày 06/8/2021. Khi ly hôn chị Y đề nghị được nuôi cả hai con chung, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung, chị Y xác định không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Ngoài ra, chị Y không còn yêu cầu gì khác.
Bị đơn anh Hoàng Đông S đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng anh S đều không có văn bản trình bày ý kiến gởi cho Tòa án và cũng không có mặt khi Tòa án triệu tập. Tòa án đã kết hợp với chính quyền địa phương đến nhà anh S nhưng vẫn không gặp được anh S nên không lấy được lời khai của anh S. Tuy nhiên, qua xác minh thực tế tại gia đình thì được biết vợ chồng anh S và chị Y phát sinh mâu thuẫn và vợ chồng đã sống ly thân.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh S vắng mặt, còn chị Y vẫn giữ nguyên yêu cầu của mình nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thanh Kim Y. Về con chung: giao con là Hoàng Thiên K, sinh ngày 17/11/2019 và Hoàng Thiên Đ, sinh ngày 06/8/2021 cho chị Nguyễn Thanh Kim Y trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hoàng Đông S không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: chị Y xác định không có và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về án phí, buộc chị Nguyễn Thanh Kim Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận của đương sự cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: bị đơn anh Hoàng Đông S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do và không thuộc trường hợp bất khả kháng nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh S theo thủ tục chung là phù hợp.
[2] Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thanh Kim Y và anh Hoàng Đông S xây dựng gia đình với nhau vào năm 2019, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hà, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 13/5/2019. Việc đăng ký kết hôn không vi phạm các điều kiện cấm kết hôn theo quy định của luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân của chị Y và anh S là hợp pháp. Tuy nhiên, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc nên chị Y làm đơn khởi kiện ly hôn. Xét thấy, vợ chồng chị Y và anh S phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng không có sự chia sẻ với nhau trong cuộc sống, vợ chồng thiếu sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, trong cách xử sự thì thiếu sự kiềm chế nên thường xảy ra bất hòa. Sau khi phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng cũng đã nhiều lần tìm cách để cải thiện tình cảm nhưng không có kết quả. Vì vậy, từ năm 2023 đến nay hai vợ chồng sống ly thân không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Bên cạnh đó, đầu năm 2023 chị Y làm đơn ly hôn và đã được Tòa án thụ lý nhưng sau đó chị lại rút đơn vì muốn tạo cơ hội cho anh S nhưng anh S không có thiện chí để cải thiện quan hệ hôn nhân nên chị Y lại tiếp tục làm đơn xin ly hôn. Mặt khác, bản thân anh S cũng không có thiện chí nhằm cải thiện quan hệ hôn nhân của hai anh chị, cụ thể là từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay, đã nhiều lần Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh S đều vắng mặt không có lý do. Do đó, nếu kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho các đương sự do mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Y, xử cho chị Nguyễn Thanh Kim Y và anh Hoàng Đông S được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.
[3] Về con chung: chị Nguyễn Thanh Kim Y và anh Hoàng Đông S có hai con chung là Hoàng Thiên K, sinh ngày 17/11/2019 và Hoàng Thiên Đ, sinh ngày 06/8/2021. Khi ly hôn chị Y yêu cầu được nuôi cả hai con chung. Xét Thấy, từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay cháu Khải và cháu Đăng vẫn do chị Y chăm sóc nuôi dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo điều kiện học tập và sinh hoạt ổn định cho các cháu, căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 81 luật hôn nhân và gia đình, giao cả hai con chung là Hoàng Thiên K, sinh ngày 17/11/2019 và Hoàng Thiên Đ, sinh ngày 06/8/2021 cho chị Nguyễn Thanh Kim Y trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về việc cấp dưỡng nuôi con do chị Y không yêu cầu nên không xem xét.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị Y xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn anh S vắng mặt và cũng không có lời khai cụ thể về vấn đề tài sản chung, nợ chung của vợ chồng trong quá trình chung sống nên Hội đồng xét xử không có cơ sở đặt ra để xem xét trong vụ án này. Sau này nếu anh S cho rằng quá trình chung sống vợ chồng có tạo lập được tài sản chung cũng như có nợ chung và có phát sinh tranh chấp thì sẽ được Tòa án xem xét giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác theo thủ tục chung.
[5] Về án phí: buộc chị Nguyễn Thanh Kim Y phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 203; khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử :
1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thanh Kim Y, xử cho chị Nguyễn Thanh Kim Y và anh Hoàng Đông S được ly hôn.
2. Về con chung: giao cả hai con chung là Hoàng Thiên K, sinh ngày 17/11/2019 và Hoàng Thiên Đ, sinh ngày 06/8/2021 cho chị Nguyễn Thanh Kim Y được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hoàng Đông S không phải cấp dưỡng nuôi con.
Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.
3. Về án phí: chị Nguyễn Thanh Kim Y phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn Thanh Kim Y đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014888 ngày 06 tháng 7 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, chị Nguyễn Thanh Kim Y đã nộp đủ án phí.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.
Chị Nguyễn Thanh Kim Y có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 15/3/2023). Riêng anh Hoàng Đông S vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án về ly hôn số 10/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 10/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về