Bản án về ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 1 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 836/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Kim H, sinh năm 1977;

Địa chỉ thường trú: Số 25/39 Lê L, phường D, thành phố C, tỉnh X; Địa chỉ hiện nay: Số 413/3/4 N, phường Z, thành phố C, tỉnh X (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Võ Phước VV, sinh năm 1972;

Địa chỉ thường trú: Ấp A, thị trấn Q, huyện Gò E, tỉnh G; Địa chỉ hiện nay: 413/3/4 N, phường Z, thành phố C, tỉnh X (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 27/10/2021, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn Nguyễn Kim H trình bày:

Bà và ông V tự nguyện tìm hiểu nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 6 (nay là phường Z), thành phố C, tỉnh X vào ngày 22/10/1997. Thời gian đầu, vợ chồng sống với nhau hạnh phúc nhưng càng về sau vợ chồng thường xuyên xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Ông V không lo đi làm ăn phụ bà về kinh tế và nuôi con ăn học. Nhiều lần bà khuyên bảo nhưng ông V đã dùng lời nói xúc phạm đến bà và gia đình bà. Mâu thuẫn kéo dài, vợ chồng thường xuyên cãi vã qua lại trước mặt con cái làm ảnh hưởng đến gia đình và tâm lí các con.

Từ tháng 6 năm 2021 đến nay vợ chồng không còn chung sống với nhau. Bà H đã cố gắng khuyên can ông V để duy trì cuộc hôn nhân này nhưng ông V vẫn không thay đổi, tình cảm của bà H dành cho ông V không còn nên bà làm đơn xin ly hôn với ông V.

Về con chung: Bà H và ông V có hai con chung là cháu Võ Hoàng T, sinh ngày 04/3/2001 và cháu Võ Nguyễn J, sinh ngày 15/8/2004. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Võ Nguyễn J và không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi cháu J. cháu Võ Hoàng B đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra bà không có con nuôi.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và biên bản hòa giải, tại phiên tòa bị đơn – ông Võ Phước V trình bày:

Ông và bà H tìm hiểu và tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 6 (nay là phường Z), thành phố C, tỉnh X vào ngày 22/10/1997. Quá trình chung sống, vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng đó là những mâu thuẫn nhỏ bình thường. Ông có cãi vã qua lại với và bà H và dùng lời nói xúc phạm đến bà H. Hiện nay vợ chồng sống chung nhà nhưng không còn tình cảm với nhau. Ông thấy vợ chồng sống hạnh phúc và cho rằng mâu thuẫn bà H trình bày chưa đủ để vợ chồng ly hôn. Ông không muốn các con phải xa nhau nên ông không đồng ý ly hôn với bà H.

Về con chung: Ông và bà H có hai con chung là cháu Võ Hoàng T, sinh ngày 04/3/2001 và cháu Võ Nguyễn J, sinh ngày 15/8/2004. Ông để cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Võ Nguyễn J và không cấp dưỡng nuôi cháu J. Cháu Võ Hoàng T đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra ông không có con nuôi.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố C thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố Tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa bà H và ông V đã trầm trọng, không thể hàn gắn làm cho mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

Về con chung, nhận thấy cháu Võ Nguyễn J, sinh ngày 15/8/2004 có nguyện vọng ở với mẹ, ông V cũng đồng ý để cháu J ở với mẹ nên việc bà H yêu cầu nuôi cháu J là có cơ sở theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Cháu Võ Hoàng T đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung: Bà H, ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

au khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định, [1] Về tố tụng: Ngày 27-10-2021, bà Nguyễn Kim H có đơn khởi kiện ông Võ Phước V về việc xin ly hôn. Bị đơn có nơi cư trú tại thành phố C nên xác định đây là vụ án khởi kiện về việc ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố C theo quy định tại Điều 28, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông V kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường 6 (nay là phường Z), thành phố C, tỉnh V vào ngày 22/10/1997 là đúng quy định về đăng ký kết hôn tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Bà H và ông V đều xác nhận nguyên nhân mâu thuẫn là do kinh tế gia đình, vợ chồng thường xuyên bất đồng ý kiến. Bà H đã nhiều lần khuyên ông V thay đổi để xây dựng gia đình nhưng ông V không sửa đổi, mâu thuẫn ngày càng gay gắt, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân. Nay tình cảm không còn nên bà H khởi kiện xin ly hôn nhưng ông V không đồng ý ly hôn vì ông cho rằng ông không muốn các con phải sống xa nhau.

Xét thấy: Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, làm nền tảng chung góp phần vào việc phát triển xã hội. Để đạt được mục đích này, vợ chồng phải chung thủy, yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau về mọi mặt. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhiều lần hòa giải, bà H đã cho ông V nhiều cơ hội nhưng ông V không biết trân trọng. Bản thân bà H xác định không còn tình cảm với ông V, vợ chồng không thể hàn gắn nên xin ly hôn. Theo kết quả xác minh tại chính quyền địa phương xác nhận: vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn. o đó, có cơ sở để kh ng định mâu thuẫn giữa vợ chồng bà H là có thật. Hiện nay vợ chồng không sống chung với nhau nên việc hàn gắn tình cảm giữa bà H và ông V là không có kết quả, m i người sống một nơi, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích của hôn nhân không đạt được nên nguyện vọng yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông V là có cơ sở chấp nhận. Tuy phía ông V cho rằng ông không đồng ý ly hôn, nhưng ông cũng không tìm được biện pháp khắc phục tình trạng hôn nhân.

[3] Về con chung: Bà Nguyễn Kim H và ông Võ Phước V có hai con chung là cháu Võ Hoàng T, sinh ngày 04/3/2001 và cháu Võ Nguyễn J, sinh ngày 15/8/2004. Bà H và ông V thỏa thuận: Bà H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Võ Nguyễn J. Cháu Võ Hoàng T đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra bà H và ông V không có con nuôi.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Xét về điều kiện, khả năng của các bên thì bà H có công việc, đủ khả năng về mặt vật chất để nuôi dạy cháu J. Cháu J có nguyện vọng được ở với mẹ nên giao cháu J cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại Khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà H, ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H, ông V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ. [7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 203, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Kim H đối với bị đơn ông Võ Phước V về việc ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Kim H được ly hôn với ông Võ Phước V.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Nguyễn J, sinh ngày 15/8/2004 cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Cháu Võ Hoàng T, sinh ngày 04/3/2001 đã đủ tuổi trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Ông V có quyền thăm và chăm sóc các con chung không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

4. Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

5. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

6. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Bà Nguyễn Kim H phải nộp số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0001540 ngày 22 tháng 12 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố C. Bà Nguyễn Kim H đã nộp xong.

7. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về