TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN THẠNH - TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 02/2024/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ LY HÔN
Ngày 26 tháng 01 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Thạnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 161/2023/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2023 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2023/QĐXXST-HNGĐ, ngày 11 tháng 12 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2023/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: chị Phan Thị Ê, sinh năm 1989; Địa chỉ: ấp Bùi Thắng, xã Nhơn Hòa Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An 2. Bị đơn: anh Bùi Duy T, sinh năm 1985; Địa chỉ: ấp B, xã N, huyện T, tỉnh Long An.
(Nguyên đơn có mặt; bị đơn vắng mặt mà không phải vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, bản tự khai và lời trình bày của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nội dung vụ kiện như sau:
Chị Phan Thị Ê và anh Bùi Duy T quen biết nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn ngày 14/12/2011 tại UBND xã N, huyện T, tỉnh Long An. Sau khi kết hôn, chị Ê và anh T chung sống với nhau có sống hạnh phúc. Tuy nhiên, đến những năm gần đây giữa vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do giữa vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau cũng như không còn tình cảm với nhau. Mặc dù gia đình cũng đã cố gắng can thiệp, hàn gắn cho vợ chồng nhưng vẫn không thay đổi được mâu thuẫn, giữa vợ chồng không thể kiềm chế được bức xúc nên không thể tiếp tục chung sống với nhau. Chị Ê xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không còn đạt được nên chị Ê yêu cầu được ly hôn với anh Bùi Duy T.
Về con chung: Chị Phan Thị Ê và anh Bùi Duy T có 01 con chung tên Bùi Duy K, sinh ngày 04/4/2011. Khi ly hôn, chị Ê yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn Bùi Duy T: Anh T vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và không gửi văn bản trình bày ý kiến nên hồ sơ vụ án không thể hiện ý kiến của anh T.
Tại phiên tòa chị Phan Thị Ê vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu ly hôn, nuôi con chung. Anh T vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai nên không có ý kiến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Tranh chấp phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp hôn nhân gia đình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn cư trú tại ấp B, xã N, huyện T, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Thạnh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Bị đơn Bùi Duy T đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không phải vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Do đó, Hội xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ Luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: [2.1] Về hôn nhân:
Chị Phan Thị Ê và anh Bùi Duy T đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Long An, vào sổ đăng ký kết hôn số 42, Quyển số 01/20011, ngày 14/02/2011 nên quan hệ hôn nhân của chị Ê và anh T là hôn nhân hợp pháp.
Về nguyên nhân dẫn đến ly hôn: Tại đơn khởi kiện, bản tự khai cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Ê trình bày trong thời gian chung sống, giữa chị Ê và anh T chỉ chung sống có hạnh phúc trong thời gian đầu. Sau đó, giữa vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chung sống với nhau không có hạnh phúc. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do anh T không lo làm ăn, không chăm lo cho gia đình, không có tinh thần trách nhiệm với vợ con, thường xuyên đánh bạc, đá gà gây ảnh hưởng kinh tế gia đình, vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm về mọi mặt nên thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn tranh chấp với nhau. Giữa chị Ê và anh T đã tự bàn bạc, giải quyết quyết mâu thuẫn nhưng kết quả không tự giải quyết được nên chị Ê và anh T không còn chung sống với nhau. Mỗi người có cuộc sống riêng, không quan tâm đến nhau. Vì vậy, chị Ê mong muốn được ly hôn với anh T.
Anh Bùi Duy T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng đã vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đến lần thứ hai mà không có văn bản trình bày ý kiến nên xem như đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình.
Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần động viên chị Ê cân nhắc, suy nghĩ về yêu cầu ly hôn, xem xét tạo điều kiện cho anh T có cơ hội sửa chữa để vợ chồng cùng chăm lo gia đình và con. Tuy nhiên, chị Ê vẫn cương quyết xin ly hôn vì chị đã nhiều lần bỏ qua mâu thuẫn, tạo cơ hội cho anh T sửa chữa để cùng xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng anh T vẫn không sửa đổi, giữa vợ chồng vẫn tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, không khắc phục được và ngày càng nghiêm trọng. Chị Ê không còn chung sống với anh T. Hiện nay, chị Ê vẫn cương quyết xin được ly hôn với anh T, không thay đổi quan điểm.
Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở xác định mâu thuẫn giữa chị Ê và anh T đã đến mức trầm trọng, mâu thuẫn vợ chồng không khắc phục được, tình cảm giữa vợ và chồng không còn, đời sống chung không còn, mục đích hôn nhân không đạt được.
Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Ê theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung:
Chị Phan Thị Ê và anh Bùi Duy T có 01 con chung tên Bùi Duy K, sinh ngày 04/4/2011. Khi ly hôn, chị Ê yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Bùi Duy K. Chị Ê không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
Cháu Bùi Duy K có văn bản nêu nguyện vọng được sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Anh T không có ý kiến, yêu cầu gì đối với yêu cầu của chị Ê về con chung. Xét thấy từ khi chị Ê và anh T sống ly thân, con chung chị Ê trực tiếp nuôi dưỡng, chăm lo các mặt đời sống cho con và vẫn đảm bảo quyền lợi cho con. Do đó, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị Ê về việc chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung tên Bùi Duy K.
Anh T được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
[2.3] Về tài sản chung: Chị Phan Thị Ê và anh Bùi Duy T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập.
[3] Về án phí: Chị Ê phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phan Thị Ê: Chị Phan Thị Ê được ly hôn với anh Bùi Duy T.
2. Về con chung:
Chị Phan Thị Ê được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Bùi Duy K, sinh ngày 04/4/2011.
Sau khi ly hôn, anh Bùi Duy T có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Chị Phan Thị Ê phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí. Chuyển 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị Ê đã nộp theo biên lai thu số 0001935 ngày 16/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Thạnh sang thành án phí.
4. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về ly hôn số 02/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 02/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Thạnh - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về