TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 37/2024/HNGĐ-ST NGÀY 07/03/2024 VỀ LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 07 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 433/2023/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2023 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2024/QĐXX-ST ngày 22 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số: 39/2024/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Sơn Kim C, sinh năm 1986; (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 05, ấp B, xã An H, huyện Ch, tỉnh A.
2. Bị đơn: Anh Trần Quan V, sinh năm 1984; (vắng mặt) Nơi cư trú: tổ 05, ấp Bình A, xã An H, huyện Ch, tỉnh A.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn chị Sơn Kim C trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Trần Quan V do quen biết, tự nguyện tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Mỹ Quý, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn, từ năm 2007 đến năm 2010 chị và anh V sống bên gia đình anh V, đến năm 2011 thì vợ chồng về sống bên gia đình cha mẹ chị. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 14 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiến nói chung, luôn xảy ra cãi vả. Sau khi cãi vả thì chị có nhờ gia đình hai bên hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, gia đình không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu ly hôn với anh V.
- Về quan hệ con chung: có 02 con chung tên: Trần Ngọc Cát V, sinh ngày 13/3/2009 và Trần Q, sinh ngày 20/12/2011. Hiện tại 02 con chung đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung, không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.
* Toà án đã nhiều lần triệu tập bị đơn anh Trần Quan V để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải, cũng như tham gia phiên toà nhưng anh V đều vắng mặt không có lý do, đồng thời cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn. Toà án đã tiến hành các thủ tục xác minh, lấy lời khai bị đơn tại nơi cư trú nhưng anh V không có mặt ở nhà khi cán bộ Toà án đến, nên Toà án không lấy được lời khai của bị đơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng.
+ Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Sơn Kim C. Về con chung: đề nghị giao hai cháu Trần Ngọc Cát V và Trần Q cho chị C tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do chị C không yêu cầu. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết nên đề nghị không đặt ra xem xét.
Về án phí: chị C phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:
[1.1] Thẩm quyền giải quyết: bị đơn anh Trần Quan V hiện có nơi cư trú tại:
tổ 05, ấp Bình An 2, xã An Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành.
[1.2] Quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn chị Sơn Kim C khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn anh Trần Quan V và yêu cầu nuôi con, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án về tranh chấp ly hôn, nuôi con.
[1.3] Về sự vắng mặt của đương sự:
Ngày 19/02/2024, nguyên đơn chị Sơn Kim C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt được Hội đồng xét xử chấp nhận. Bị đơn anh Trần Quan V đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.
[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Sơn Kim C thấy:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân:
Theo nguyên đơn chị C trình bày thì chị và bị đơn anh Trần Quan V do quen biết mới tiến đến hôn nhân, chung sống với nhau có tổ chức đám cưới có đăng ký kết hôn năm 2007 theo quy định pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh được khoảng 14 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị C trình bày do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiến nói chung, luôn xảy ra cãi vả, gia đình hai bên hàn gắn tình cảm cho chị và anh V nhưng không thành.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần mở phiên hoà giải nhằm tạo điều kiện để chị C và anh V hàn gắn tình cảm, nhưng chị C vẫn kiên quyết ly hôn, anh V được Toà án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không lý do, cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, điều này chứng tỏ anh V không có nguyện vọng đoàn tụ với chị C.
Tất cả điều này cho thấy hôn nhân của chị C và anh V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị C.
[2.2] Về quan hệ con chung: Chị C và anh V có 02 con chung tên: Trần Ngọc Cát V, sinh ngày 13/3/2009 và Trần Q, sinh ngày 20/12/2011. Hiện tại 02 con chung đang sống với chị C. Tại văn bản trình bày ý kiến ngày 29/12/2023 và 16/01/2024 hai cháu Cát V và Trần Q đều có nguyện vọng sống với mẹ nếu cha mẹ ly hôn.
Xét thấy, hai cháu Cát V và Trần Q đã sống ổn định với chị C, anh V không có ý kiến được trực tiếp nuôi dưỡng các cháu. Do đó, để đảm bảo cuộc sống của các cháu được ổn định, không bị xáo trộn sau khi cha mẹ ly hôn nên căn cứ quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị C, giao cháu Cát V và Trần Q cho chị C tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng. Chị C phải tạo điều kiện thuận lợi cho anh V được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc các con chung, không ai cản trở khi anh V thực hiện quyền này.
Về cấp dưỡng: Chị C không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi các con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: theo chị C trình bày vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
[3] Về án phí: Chị C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004352 ngày 07/12/2023 của C cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Sơn Kim C.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Sơn Kim C được ly hôn với anh Trần Quan V.
2. Về quan hệ con chung: có 02 con chung tên: Trần Ngọc Cát V, sinh ngày 13/3/2009 và Trần Q, sinh ngày 20/12/2011. Chị Sơn Kim C được quyền tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu Trần Ngọc Cát V và Trần Q.
Về cấp dưỡng: Anh V không phải cấp dưỡng nuôi các con chung do chị C không yêu cầu.
Chị C cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh V thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu Trần Ngọc Cát V và Trần Q.
Nếu người không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người còn lại thì người còn lại có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng dựa trên các quy định của pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết. Trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.
4. Về án phí: Chị Sơn Kim C phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số 0004352 ngày 07/12/2023 của C cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Sơn Kim C và anh Trần Quan V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, nuôi con số 37/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 37/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 07/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về