Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 48/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 48/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 287/2021/TLST- HNGĐ ngày 20/12/2021, về việc “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 37/2022/QĐ-ST ngày 29 tháng 3 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Quyết T, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn ĐTr, xã ĐCh, huyện CGi, tỉnh Hải Dương (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Nguyễn Khánh L, sinh năm 1995 Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn ĐTr, xã ĐCh, huyện CGi, tỉnh Hải Dương.

Địa chỉ hiện nay: Đài Loan (vắng mặt).

- Người làm chứng: Bà Trịnh Thị Th, sinh năm 1964 Địa chỉ: Khu 3, thị trấn CG, huyện CGi, tỉnh Hải Dương (đề nghị xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và biên bản lấy lời khai, nguyên đơn anh Nguyễn Quyết T trình bày:

- Về quan hệ vợ chồng: Anh và chị Nguyễn Khánh L được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐCh, huyện CGi, tỉnh Hải Dương vào ngày 03/01/2017. Sau khi kết hôn, anh chị sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân của mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường hay xảy ra cãi nhau. Gia đình hai bên có biết về mâu thuẫn của vợ chồng anh chị, có can thiệp hòa giải nhưng không có kết quả. Anh và chị L cũng đã cùng ngồi nói chuyện để tìm cách cải thiện tình trạng mâu thuẫn vợ chồng nhưng giữa hai vợ chồng vẫn không tìm được tiếng nói chung. Cuối năm 2019, chị L tự làm thủ tục đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, vợ chồng anh chị sống ly thân kể từ đó đến nay, không còn quan tâm hay liên lạc gì với nhau. Nhận thấy vợ chồng xa cách nhau đã lâu, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn được nữa. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L.

- Về con chung: Anh và chị L có một con chung là Nguyễn Thanh Tr, sinh ngày 16/3/2017, hiện nay cháu đang ở cùng anh và ông bà nội. Anh hiện đang làm công nhân ở Công ty TNHH MyongShin Tech Vina, địa chỉ: Lô XN3-1D khu công nghiệp ĐA mở rộng, thị trấn LC, huyện CGi, tỉnh Hải Dương, thu nhập trung bình khoảng hơn 10 triệu đồng/tháng. Bố mẹ anh đều làm nông nghiệp ở nhà, có nhiều thời gian hàng ngày hỗ trợ anh trong việc chăm sóc con cái. Để ổn định cuộc sống cũng như học tập của con, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được tiếp tục nuôi con chung. Anh tự nguyện không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng anh.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Bị đơn: Trong quá trình giải quyết vụ án do anh T không cung cấp được địa chỉ của chị L tại Đài Loan nên Tòa án đã xác minh qua gia đình chị L, đồng thời yêu cầu gia đình cung cấp địa chỉ của chị L. Bà Trịnh Thị Th là mẹ đẻ chị L xác định: Chị L hiện làm việc và sinh sống tại Đài Loan nhưng bà không biết địa chỉ cụ thể của chị L nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên, chị L thường xuyên liên lạc về gia đình. Bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho chị L biết. Theo bà Th cung cấp thì về thời điểm kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng, con chung như anh T trình bày là đúng. Kể từ khi chị L đi Đài Loan thì chị L và anh T không còn liên lạc với nhau, không ai còn quan tâm đến ai. Việc anh T làm đơn xin ly hôn với chị L, bà đã thông báo cho chị L biết. Quan điểm của chị L cũng xác định mâu thuẫn vợ chồng kéo dài đã lâu, hai vợ chồng đã sống ly thân một thời gian dài, tình cảm vợ chồng không còn, chị nhất trí ly hôn theo nguyện vọng của anh T và giao con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, chị không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng anh T. Vợ chồng chị L, anh T không có tài sản chung, không có nợ chung, không có công sức đóng góp gì với gia đình hai bên.

Anh T có đơn xin xét xử vắng mặt và có quan điểm giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn chị L vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn chấp hành đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không chấp hành đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình:

Về quan hệ vợ chồng: Xử cho anh Nguyễn Quyết T được ly hôn chị Nguyễn Khánh L;

Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Thanh Tr, sinh ngày 16/3/2017 cho anh T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng cho con;

Về án phí: Anh T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Anh Nguyễn Quyết T có đơn khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương giải quyết việc ly hôn giữa anh với chị Nguyễn Khánh L. Chị L hiện đang sinh sống và lao động tại Đài Loan. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương.

Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T không cung cấp được địa chỉ của chị L tại Đài Loan. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu anh T và gia đình chị L cung cấp địa chỉ, nhưng anh T và gia đình chị L đều không cung cấp được. Do vậy, áp dụng Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.

Tại phiên tòa anh T có đơn xin xét xử vắng mặt, chị L vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh T, chị L.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Quyết T và chị Nguyễn Khánh L được tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐCh, huyện CGi, tỉnh Hải Dương vào ngày 03/01/2017 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, hai bên không quan tâm đến nhau. Nay anh T xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị L. Thông qua gia đình, chị L có quan điểm nhất trí ly hôn theo yêu cầu của anh T. Xét thấy thực tế anh chị không chung sống cùng nhau từ nhiều năm và không còn quan tâm đến nhau, mâu thuẫn của anh T và chị L đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc anh T xin ly hôn chị L là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[2.2]. Về quan hệ con chung: Anh T và chị L có một con chung là Nguyễn Thanh Tr, sinh ngày 16/3/2017, hiện nay cháu đang ở cùng anh T và ông bà nội. Xét thực tế, chị L đang ở nước ngoài, không có mặt tại Việt Nam nên việc giao con cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp. Chấp nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng anh.

Chị L được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3]. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Anh T phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì những lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1]. Về quan hệ vợ chồng: Xử cho anh Nguyễn Quyết T được ly hôn chị Nguyễn Khánh L.

[2]. Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Quyết T tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thanh Tr, sinh ngày 16/3/2017, thời gian từ tháng 4/2022 đến khi con chung thành niên. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Nguyễn Quyết T không yêu cầu chị Nguyễn Khánh L phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng anh.

Chị Nguyễn Khánh L được quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[3]. Về án phí: Anh Nguyễn Quyết T phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0004636 ngày 17/12/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương (Anh T đã thực hiện xong nghĩa vụ án phí).

[4]. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Quyết T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật; Chị Nguyễn Khánh L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 48/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:48/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về