Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 10 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 06/2022/TLST–HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 14/2022/QĐHPT-ST ngày 14/4/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Nam Ph, sinh năm 1984

 - Bị đơn: Chị Chu Thị H, sinh năm 1989 Đều ở địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ1, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt anh Ph, vắng mặt chị H)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện được bổ sung bằng biên bản ghi lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Phạm Nam Ph trình bày: Anh và chị Chu Thị H tự do, tự nguyện tìm hiểu kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ1, huyện Q vào ngày 18/10/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống và lao động tự do. Trong quá trình chung sống, do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống đã dẫn đến phát sinh mâu thuẫn. Đầu năm 2016 mâu tuẫn căng thẳng, chị H đã tự ý bỏ nhà đi làm tự do không cố định địa chỉ, đến tháng 11/2021 chị H trở về gia đình anh sinh sống, hai bên sống ly thân, độc lập về kinh tế, không hỏi han gì đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị xin được ly hôn chị H.

Về con chung: Anh Ph khai vợ chồng có 02 con chung là Phạm Trung K, sinh ngày 15/6/2008 và Phạm Thị Thanh Tr, sinh ngày 28/12/2012, ly hôn xảy ra anh đề nghị được nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Anh Ph khai vợ chồng không có tài sản chung, vợ chồng không có nợ chung và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là chị Chu Thị H: Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập và tống đạt hợp lệ mọi văn bản tố tụng cần thiết cho chị H biết và đến Tòa án giải quyết vụ kiện, nhưng chị H vẫn cố tình vắng mặt, không đến Tòa án giải quyết việc ly hôn, vì vậy Tòa án không ghi được lời khai của chị H và không tiến hành hòa giải được. Tại phiên tòa lần 1 và lần 2 chị H vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Hồ sơ vụ án từ giai đoạn thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án đã lập và thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, tuân thủ đúng trình tự luật định. Tại phiên tòa việc xét xử vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng trình tự pháp luật. Đối với nguyên đơn trong các giai đoạn tố tụng và tại phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn vắng mặt tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa, vì vậy đại diện Viện kiểm sát không đưa ra ý kiến về việc chấp hành pháp luật của bị đơn. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTV QH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Ph được ly hôn chị H; Về con chung xử giao 02 con chung cho anh Ph được trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung; Về tài sản chung không đặt ra giải quyết; anh Ph phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn có nơi cư trú tại thôn Đ, xã Đ1, huyện Q, tỉnh Thái Bình, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình theo quy định tại Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn đã được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa anh Phạm Nam Ph và chị Chu Thị H được xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện tìm hiểu kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ1, huyện Q vào ngày 18/10/2007 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh Ph và chị H sinh sống với gia đình anh Ph tại thôn Đ, xã Đ1 và lao động tự do, trong quá trình chung sống do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống đã dẫn đến phát sinh mâu thuẫn. Năm 2016 mâu thuẫn căng thẳng, Chị H tự ý bỏ nhà đi làm tự do đến tháng 11/2021 thì quay trở về gia đình anh Ph sinh sống nhưng hai bên sống ly thân từ đó cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh Ph làm đơn khởi kiện đề nghị xin được ly hôn chị H. Còn đối với chị H quá trình giải quyết vụ kiện Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ để chị H biết và đến Tòa án tham gia hòa giải, vợ chồng có cơ hội gặp gỡ trở về đoàn tụ, nhưng chị H vẫn cố tình vắng mặt. Như vậy, Chị H không có thiện chí hòa giải mối quan hệ hôn nhân giữa chị và anh Ph. Qua xác minh lời khai bà Vũ Thị Ng, sinh năm 1954, địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ1 là mẹ đẻ anh Ph và ông Hà Văn H1là công chức tư pháp xã Đ1đều xác nhận hiện Chị H và anh Ph đang sinh sống tại gia đình bà Ng ở thôn Đ, xã Đ1, nhưng hai bên sống ly thân, độc lập về cuộc sống. Chị H hàng ngày đi làm ăn tự do không cố định địa chỉ, nhưng vẫn thường xuyên về nhà, Chị H đã biết việc anh Ph làm đơn xin ly hôn và đã nhận các giấy tờ của Tòa án tống đạt. Quan điểm của bà Ng và ông H1đều đề nghị Tòa án căn cứ vào thực trạng hôn nhân để giải quyết cho anh Ph được ly hôn chị H theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, anh Ph vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị xin được ly hôn, điều đó chứng tỏ cuộc sống tình cảm vợ chồng giữa anh Ph và chị H đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, cần căn cứ vào Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh Phđược ly hôn chị H là có căn cứ.

[4] Về con chung: Xét yêu cầu của anh Phvề nuôi dưỡng con chung qua xác minh cho thấy, 02 con chung là là Phạm Trung K, sinh ngày 15/6/2008 và Phạm Thị Thanh Tr, sinh ngày 28/12/2012 được anh Ph trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng chu đáo kể từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Bà Ng và ông H1đều có ý kiến đề nghị giao cả 02 con chung cho anh Phtrực tiếp nuôi dưỡng thì sẽ đảm bảo đời sống con chung, cháu K và cháu Tr cũng có nguyện vọng xin được ở với bố. Vì vậy cần xử giao 02 con chung cho anh Ph trực tiếp nuôi dưỡng và anh Phkhông yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về tài sản chung: Anh Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy phần tài sản Tòa án không xét.

[6] Về án phí: Anh Ph phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Anh Phạm Nam Ph và chị Chu Thị H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Phạm Nam Ph được ly hôn chị Chu Thị H.

2/Về con chung: Xử giao 02 con chung Phạm Trung K, sinh ngày 15/6/2008 và Phạm Thị Thanh Tr, sinh ngày 28/12/2012 cho anh Phạm Nam Ph được trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị H có quyền đi lại thăm nom con chung.

3/Về tài sản chung: Anh Phạm Nam Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/Về án phí: Anh Phạm Nam Ph phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng anh Ph đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004577 ngày 20/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ thành tiền án phí.

5/Về quyền kháng cáo: Anh Ph có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Chị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về