Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 55/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2022 về việc Tranh chấp về Hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 6 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hà Thị M, sinh năm 1994 - Có mặt.

Địa chỉ: Xóm S, xã K, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:Ông Bùi Đức D - Trợ giúp viên pháp lý nhà nước thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ.

- Bị đơn:Anh Đinh Công D, sinh năm 1989–Có mặt.

Địa chỉ: Xóm T, xã V, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn :Ông Lã Thành C - Trợ giúp viên pháp lý nhà nước thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ.

Ông Bùi Đức D và anh Đinh Công D có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn: Trong đơn khởi kiện ngày 21/3/2022, các bản tự khai tại Tòa án và biên bản hòa giảichị Hà Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị M và anh Đinh Công D tự nguyên kết hôn ngày 16/01/2012, đăng ký kết hôn tại UBND xã Khả Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị chung sống với gia đình anh D. Vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do mâu thuẫn gia đình, bố mẹ anh Dđuổi mẹ con chị ra khỏi nhà, anh D thì nhu nhược vô trách nhiệm với vợ con nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng phát sinh sâu sắc mà cả hai bên không tự hòa giải được. Từ tháng8 năm 2020, chị M phảiđưa cả 02 con chung về nhà bố mẹ đẻ ở xã Khả Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ sinh sống, chị đã chuyển khẩu cả 03 mẹ con về xóm Sinh Dưới, xã Khả Cửu. Vợ chồng chị cũng ly thân từ đó không còn quan tâm đến nhau nữa. Chị xác định không thể tiếp tục chung sống với anh D được nữa, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D để chị sớm ổn định cuộc sống, làm ăn nuôi con.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 người con chung là cháu Đinh Công V, sinh ngày 01/8/2013 và cháu Đinh Thị Ngọc Tr, sinh ngày 24/9/2016. Hiện nay 02 con chung đang ở với chị M. Khi ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con cung. Hiện nay chị M đang ở nhà cùng các con, làm ruộng và chăn nuôi, thu nhập khoảng 9.000.000đ/tháng. Chị M đảm bảo đủ  điều kiện nuôi cả 02 con chung cho đến khi trưởng thành. Thực tế hiện chị vẫn đang nuôi 02 con chung kể từ khi vợ chồng ly thân từăn 2020 cho đến nay, Anh D chỉ chu cấp nuôi con được 4 đến 5 tháng đầu, sau đó không chu cấp nữa nhưng chị vẫn đảm bảo cho các con ăn, học trong điều kiện tốt nhất theo mức sống tại địa phương.

Về tài sản chung, nợ chung và công sức:Chị Hà Thị M không đề nghị Tòa án giải quyết.

Bị đơn: Anh Đinh Công D có đơn xin xét xử vắng mặt và đã có quan điểm tại bản tự khai tại Tòa án và biên bản hòa giải như sau:

Về quan hệ hôn nhân:Anh D xác nhậný kiến của chị M về thời gian kết hôn, về nơi đăng ký kết hôn và thời gian vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc, thờiđiểm vợ chồng ly thân là đúng. Nhưng về mâu thuẫn vợ chồng, theo anh D nguyên nhân do chị M sống không chung thủy, có quan hệ bất chính bên ngoài nhưng anh không biết là ai. Anh D đã khuyên nhủ và tha thứ cho chị M nhiều lần nhưng chị M vẫn không thay đổi, sửa chữa. Anh D xác định không còn tình cảm với chị M nữa, nay chị M xin ly hôn anh đồng ý để giải phóng cho cả hai.

Về con chung: Vợ chồng anh chị có 02 con chung như chị M trình bày.

Ly hôn anh xin nuôi cả 02 con chung và không yêu cầu chị M cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Hiện các con đang ở cùng với chị M kể từ khi hai vợ chồng ly thân từ năm 2020 đến nay, hộ khẩu các con, anh chuyển theo chị M lên xã Khả Cửu. Hiện anh đang làm thợ xây tại Hà Nội, thu nhập khoảng 8.000.000đ/tháng. Anh thường xuyên đi làmăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà, anh chưa có nhà riêng nếuđược nuôi 02 con chung thì anh ở nhà chăm sóc các con chung.

Về tài sản chung; công nợ và công sức:Anh Đinh Công D không đề nghị Tòa án giải quyết.

* Quan điểm Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn:

Tại luận cứ bảo vệ gửi HĐXX, ông Bùi Đức D có quan điểm:

Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 55, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Xử Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Hà Thị M và anh Đinh Công D.

Con chung: Thực tế chị Hà M vẫn nuôi các con từ năm 2020 và đã chuyển khẩu về Khả Cửu. Chị M vẫn đảm bảo nuôi các con ăn học trong điều kiện tốt nhất, các cháu ngoan, khỏe mạnh, học tập tốt. Anh D chỉ có trách nhiệm chu cấp nuôi các cháu thời gian đầu. Đặc biệt do anh D đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về nhà nhưng cũng không lên thăm các con. Để đảm bảo quyền và lợi ích của của trẻ em, không xáo trộn môi trường sống và học tập của các cháu, đề nghị HĐXX giao cả hai con chung cháu Đinh Công V, sinh ngày 01/8/2013 và cháu Đinh Thị Ngọc Tr, sinh ngày 24/9/2016 cho chị Mtiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng đến khi các cháu thành niên.

Tài sản chung, nợ chung các bên không đề nghị giải quyết.

*Quan điểm Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn:

Đề nghị HĐXX căn cứ Điều 55, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Xử Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Hà Thị M và anh Đinh Công D.

Về con chung: Anh D có nguyện vọng được nuôi cả hai con chung là chính đáng. Anh D có thu nhập 8.000.000đ/tháng, đảm bảo được nhu cầu ăn, học cho các con. Tuy anh đi làm ăn xa nhưng anh thể biện quan điểm tại Biên bản hòa giải nếu được nuôi cả hai con chung, anh sẽ ở nhà chăm sóc các con. Đề nghị HĐXX giao cháu Đinh Công V, sinh ngày 01/8/2013 cho anh D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giao cho chị M trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Đinh Thị Ngọc Tr- sinh ngày 24/9/2016 là phù hợp qui định của Luật hôn nhân và gia đình.

Tài sản chung, nợ chung các bên không đề nghị giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Sơn tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩn phán tiến hành thụ lý vụ án, triệu tập đương sự đến Tòa án giải quyết, điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.

Các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành và thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng Dân sự và đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình tại phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 56; Điều 81, 82, 83 - Luật hôn nhân và gia đình.Khoản 4 Điều 147, Điều 271, Khoản 1 Điều 273 - Bộ luật tố tụng Dân sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy địnhvề án phí, lệ phí Tòa án.

Xử cho chị Hà Thị M được ly hôn anh Đinh Công D.

Về con chung: Giao hai con chung là Đinh Công V, sinh ngày 01/8/2013 và cháu Đinh Thị Ngọc Tr, sinh ngày 24/9/2016, cho chị M tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng kể từ tháng 5/2022, đến khi các cháu thành niên, tự lực được. Chị M không yêu cầu anh Dcấp dưỡng nuôi con chung.

Chị M, anh D đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng:Chị M, anh D không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Hà Thị M phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Các đương sự đều đăng ký hộ khẩu thừơng trú và nơi cư trú tại Huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự,Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Xét về sự vắng mặt của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn và sự vắng mặt của Bị đơn:Ngày 18/5/2022, Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Nguyên đơn nộp đơn xin xét xử vắng mặt. Ngày 19/5/2022,Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn nhận được đơn xin xét xử vắng mặt của bị đơn- anh Đinh Công D. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2]Về quan hệ hôn nhân:Những phân tích , đánh giá về tình trạng hôn nhân và các quan hệ khác trong vụ án của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ bởi lẽ:Quan hệ hôn nhân giữa chị Hà Thị M và anh Đinh Công D là hợp pháp, được chứng minh tại đăng ký kết hôn số 05/2012, ngày 16/01/2012. Trước khi kết hôn anh chị đã có thời gian tìm hiểu và tự nguyện chung sống cùng nhau. Sau khi kết hôn, chị M về chung sống cùng gia đình anh D. Vợ chồng hòa thuận hạnh phúcđến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do mâu thuẫn giữa chị M với gia đình, bố mẹ anh Dđuổi mẹ con chị ra khỏi nhà. Đáng lẽ, anh D phải là người hóa giải mâu thuẫn giữa vợ và bố mẹ, nhưng anh D nhu nhược vô trách nhiệm với vợ con nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng phát sinh sâu sắc. Do không thể hòa giải được mâu thuẫn phức tạp tại gia đình nhà chồng, khoảng tháng 8 năm 2020 chị M phải đưa cả 02 con chung về nhà bố mẹ đẻ ở xã Khả Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ sinh sống cho đến nay, vợ chồng sống ly thân từ đó không còn quan tâm gì đến tình cảm, cuộc sống của nhau nữa. Tại phiên tòachị M vẫn kiên quyết ly hôn. Tại bản tự khai và Biên bản hòa giải, anh D cũng đồng ý ly hôn để giải phóng cho nhau. HHĐXX xét thây: Mâu thuẫn vợ chồng chị M và anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên giải quyết chấm dứt quan hệ hôn nhân của chị M và anh D là có căn cứ.

[2]Về con chung: Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, chị M và anh D đều có nguyện vọng nuôi cả hai con chung. Xét nguyện vọng xin nuôi các con của chị M và anh D là chính đáng, nhưng khi xem xét giao con cho bố hoặc mẹ nuôi dưỡng cần căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của trẻ em. HĐXX nhận thấy, những phân tích, đánh giá và đề nghị của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh D về quan hệ con chung là không có căn cứ bởi lẽ: Các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ chứng minh, từ tháng 8/2020 đến nay anh D không trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng các con, mà chỉ chu cấp nuôi con chung được khoảng 4, 5 tháng. Theo trình bày của anh D, anh đi làm ăn xa, thỉnh thoảng mới về thăm nhà. Đặc biệt hơn khi chị M chuyển khẩu 03 mẹ con chị về quê sinh sống anh D và gia đình đều đồng ý. Tại phiên tòa hôm nay, anh D không có mặt để bảo vệ quan điểm xin nuôi con của mình,điều đó chứng tỏ anh D và gia đình không có sự quan tâm đến cuộc sống của 03 mẹ con chị M mà có ý thức bỏ mặc chị M tự xoay sở chăm, nuôi các con. Xét điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng các con của chị M đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các con hơn anh D. Từ khi các con được sinh ra, chị M luôn ở nhà chăm sóc dạy bảo các con. Đặc biệt từ tháng 8/2020 đến nay chị M tự mình nuôi dưỡng chăm sóc các con tại quê nhà- xã Khả Cửu, huyện Thanh Sơn. Với thu nhập 9.000.000đ/tháng từ nghề trồng trọt, chăn nuôi và làm thêm tại địa phương chị M có đủ điều kiện bảo đảm cuộc sống cho các con cả về thể chất lẫn tinh thần và học tập.

Từ những phân tích trên, HĐXX xét thấy cần giao hai con chung của chị M, anh D cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng, chị M tự nguyện không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung là có căn cứ qui định tại khoản 2 Điều 81; Điều 82- Luật hôn nhân và gia đình.

[3]Về tài sản chung, nợ chung và công sức: Chị M và anh D không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[4]Về án phí :Chị Hà Thị M phải chịu tiền án phí hôn nhân sơ thẩm.Các đương sựđược quyền kháng cáo bản ántheo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81+82+83- Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Cho Hà Thị M được ly hôn anh Đinh Công D.

Về con chung: Giao 02 con chung là: Đinh Công V, sinh ngày 01/8/2013 và Đinh Thị Ngọc Tr, sinh ngày 24/9/2016 cho chị Hà Thị M tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ tháng 5/2022 đến khi các cháu thành niên, tự lực được. Chị M không yêu cầu anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Hai bên đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

2.Vềán phí ly hôn sơ thẩm: Chị Hà Thị M phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị M đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo biên lại thu tiền tạm ứng án phí lệ phí số AA/2020/0006749 ngày 23/3/2022, tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ được chuyển thành án phí ly hôn. Xác nhận chị M đã nộp đủ.

Chị M được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND nơi cư trú đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và Điều 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự."

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về