Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/03/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 11 tháng 3 năm 2022, tại Hội trường xét xử trụ sở Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 654/2021/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2021, về việc: “Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 08/2022/QĐST-HNGĐ giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1990; Địa chỉ: Tổ dân phố 4, phường Thành N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

Bị đơn: Ông Lê Hồng K, sinh năm 1969; Địa chỉ: Tổ dân phố 4, phường Thành N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày có nội dung như sau:

Bà Nguyễn Thị H và ông Lê Hồng K kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Thành N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 17/9/2019. Sau khi kết hôn bà H và ông K về cư trú và tại tổ dân phố 4, phường Thành N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu sau đó thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống nên dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, rạn nứt không thể hàn gắn được. Sau đó thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh căng thẳng, nay bà H thấy không còn tình cảm với ông K nữa nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn với ông K.

Về con chung, bà H và ông K có một con chung là Lê Minh N, sinh ngày 03/8/2019, hiện nay cháu N đang sống cùng với bà H nên bà H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N cho đến khi đủ tuổi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Hồng K:

Trong quá trình giải quyết vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cố tình lẫn tránh vắng mặt không tham gia tố tụng nên Tòa án không tiến hành ghi lời khai, công khai chứng cứ và hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ của vụ án từ khi thụ lý đến khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử của Thẩm phán và tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 55, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H xin ly hôn ông Lê Hồng K.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Lê Hồng K.

Về con chung: Giao cháu Lê Minh N, sinh ngày 03/8/2019 cho bà Nguyễn Thị H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi thành niên.

Ông Lê Hồng K được quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

Về án phí: Nguyên đơn bà H phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định.

[1]. Về thẩm quyền và quan hệ pháp luật: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn ông Lê Hồng K có cư trú và sinh sống tại tổ dân phố 4, phường Thành N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lê Hồng K đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn ông K là phù hợp với Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông K lấy nhau trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Thành N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 17/9/2019, là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Trong quá trình chung sống, thì vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian sau đó thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng không ai quan tâm chăm sóc đến nhau nữa. Sau đó thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh căng thẳng dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, rạn nứt không thể hàn gắn được. Nay bà H xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không thể hàn gắn được nữa nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà H được ly hôn với ông K.

Tại biên bản xác minh của Tòa án chính quyền địa phương cho biết bà H và ông K là vợ chồng, có cư trú và sinh sống tại tổ dân phố 4, phường Thành N, thành phố B. Về mâu thuẫn vợ chồng thì được biết vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống nên dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt, rạn nứt không thể hàn gắn được, hiện vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông K vắng mặt không tham gia tố tụng, cố tình lẫn tránh, nên tình cảm vợ chồng và mâu thuẫn ngày càng trở nên trầm trọng không hòa giải đoàn tụ được.

Xét mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng giữa bà H và ông K đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân thì không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]. Về con chung: Hiện nay bà H đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lê Minh N, sinh ngày 03/8/2019, hiện bà H đang trực tiếp nuôi dưỡng nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung và để ổn định cuộc sống của con chung cần giao cháu Lê Minh N cho bà Nguyễn Thị H được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi thành niên.

Ông Lê Hồng K có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở là phù hợp với quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Việc cấp dưỡng nuôi con chung: Bà H không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không đặt ra xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

[6]. Về án phí: Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 220, Điều 227, Điều 228; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H xin ly hôn ông Lê Hồng K.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn ông Lê Hồng K.

Về con chung: Giao con chung là Lê Minh N, sinh ngày 03/8/2019 cho bà Nguyễn Thị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi đủ tuổi thành niên.

Ông Lê Hồng K có quyền, nghĩa vụ thăm nom và chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị H không yêu cầu Tòa án đặt ra giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng mà bà H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai thu số 60AA/2021/0004665 ngày 14/10/2021.

Nguyên đơn có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niếm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thị hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về