TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG, CẤP DƯỠNG NUÔI CON CHUNG
Ngày 28 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 124/20 21 /TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2021 về: ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/20 21 /QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số: 02/ TB- TA ngày 10 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Chu Thị V- Sinh năm 1996.
Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã V, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
Bị đơn: Anh La Văn C - Sinh năm 1997.
Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã V, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 04-10-2021, bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn- chị Chu Thị V trình bày:
Chị Chu Thị V đăng ký kết hôn với anh La Văn C trên cơ sở tự nguyện vào ngày 12 tháng 6 năm 2020, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã V, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến ngày 16 tháng 6 năm 2021 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh La Văn C uống rượu say rồi có hành vi bạo lực với vợ con. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ ngày 16 tháng 6 năm 2021 đến nay. Hai vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa và cũng không có biện pháp để khắc phục mâu thuẫn. Nay chị V xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh La Văn C.
Về con chung:
Chị Chu Thị V và anh La Văn C có 01 con chung: La Tuấn Kh, sinh ngày 06- 8-2020.
Ly hôn chị V có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu La Tuấn Kh, sinh ngày 06-8-2020 và chị có đơn xin rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung:
Chị Chu Thị V không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại biên bản xác minh ngày 10-12-2021 tại UBND xã V, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái thể hiện:
Về thời gian, địa điểm và các điều kiện kết hôn như chị V trình bày là đúng. Sau khi kết hôn đến được một thời gian ngắn thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Nay chị V có đơn ra tòa xin ly hôn. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.
Về con chung:
Chị Chu Thị V và anh La Văn C có 01 con chung: La Tuấn Kh, sinh ngày 06- 8-2020.
Ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định.
Về tài sản chung, nợ chung: Địa phương không nắm bắt được không nắm bắt được cụ thể nên không cung cấp được thông tin.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái tại phiên tòa:
Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
+ Cho nguyên đơn chị Chu Thị V được ly hôn với bị đơn anh La Văn C.
+ Về con chung: Giao con chung La Tuấn Kh, sinh ngày 06-8-2020 cho chị Chu Thị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Anh La Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh C có quyền thăm nom đối với con chung không ai được cản trở.
+ Về tài sản chung và nợ chung: Chị Chu Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
+ Về án phí: Chị Chu Thị V phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
+ Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Tòa án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, Thẩm phán, Thư ký trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa ngày 14-01-2022 anh La Văn C đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do, do vậy Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa. Đến phiên tòa ngày hôm nay (ngày 28-02-2022) anh La Văn C đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do, chị Chu Thị V có đơn xin giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt tất cả đương sự theo thủ tục chung quy định tại Điều 227 và Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Chị Chu Thị V và anh La Văn C xác lập quan hệ hôn nhân vào ngày 12 tháng 6 năm 2020. Đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã V, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến ngày 16 tháng 6 năm 2021 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh La Văn C uống rượu say rồi có hành vi bạo lực với vợ con. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ ngày 16 tháng 6 năm 2021 đến nay. Hai vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa và cũng không có biện pháp để khắc phục mâu thuẫn. Nay chị V xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh La Văn C.
Hội đồng xét xử xét thấy, chị Chu Thị V và anh La Văn C có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái, việc đăng ký kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không bị ai ép buộc do đó hôn nhân giữa chị V và anh C là hợp pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành các thủ tục theo quy định pháp luật nhưng anh La Văn C không hợp tác thể hiện anh C không có ý muốn đoàn tụ. Xét mâu thuẫn giữa chị V và anh C đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị Chu Thị V với anh La Văn Cg là có cơ sở và phù hợp nên cần được chấp nhận.
[3]. Về con chung:
Chị Chu Thị V và anh La Văn C có 01 con chung: La Tuấn Kh, sinh ngày 06- 8-2020.
Chị Chu Thị V có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung La Tuấn Kh. Hội đồng xét xử xét thấy, việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục và cấp dưỡng nuôi con là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ của cha mẹ. Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị V vẫn có nguyện vọng được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án anh C không hợp tác và không có yêu cầu hay đề nghị gì khác. Mặt khác, cháu Kh hiện dưới 36 tháng tuổi cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ và cũng phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Do vậy cần giao con chung là La Tuấn Kh cho chị Chu Thị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế.
[4]. Về việc cấp dưỡng nuôi con:
Quá trình giải quyết vụ án, chị Chu Thị V yêu cầu anh La Văn C cấp dưỡng nuôi con chung với mức 1.000.000đ/tháng đến khi con chung đủ 18 tuổi. Ngày 30-11- 2021 chị V có đơn xin rút yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Xét việc rút yêu cầu của chị V là tự nguyện và không trái pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận và không xem xét đến việc cấp dưỡng nuôi con chung.
[5]. Về tài sản chung và nợ chung:
Chị Chu Thị V không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái tại phiên tòa:
Nhận định của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái tại phiên tòa là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
[7]. Về chi phí tố tụng và các vấn đề khác:
Chị Chu Thị V phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, anh La Văn C không phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
[8]. Về quyền kháng cáo:
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1.Về quan hệ hôn nhân:
Chị Chu Thị V được ly hôn với anh La Văn C.
2. Về con chung: Giao con chung La Tuấn Kh, sinh ngày 06-8-2020 cho chị Chu Thị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Chu Thị V phải chịu 300.000 đồng tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền số: AA/2021/0001506 ngày 04-10-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
Anh La Văn C không phải chịu tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Chị Chu Thị V, anh La Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, Điều 7, Điều 7A, Điều 7B và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung số 06/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 06/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Bình - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về