TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 129/2021/DSST NGÀY 30/09/2021 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 30/9/2021 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 444/2019/TLST-DS, ngày 05/12/2019, về việc “Kiện tranh chấp HĐ vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2021/QĐST-DS ngày 25/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 150/2021/QĐST- DS ngày 14/9/2021 giữa:
Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam. Địa chỉ: Số XX đường H, quận H, TP Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức Tú – Chủ tịch Hội đồng quản trị.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nông Hà Hào – Giám đốc Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam - chi nhánh Buôn Hồ.
Ông Hào ủy quyền lại cho ông Hoàng Văn Khoa – Phó giám đốc phòng giao dịch Ea H’Leo. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
Địa chỉ: Số 5xx đường G, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1985 và bà Chu Thị Th, sinh năm 1987.
Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.
Địa chỉ: Thôn a, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 04/6/2019 ông Nguyễn Văn Ch và bà Chu Thị Th ký HĐ tín dụng vay tại Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam với số tiền là 560.000.000 đồng. Tại HĐ thế chấp ông Ch, bà Th thế chấp 01 xe ô tô khách hiệu FORD, màu trắng, biển kiểm soát 47B-019.70 và giấy đăng ký xe ô tô số 028318 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 27/4/2017 mang tên Nguyễn Văn Ch.
Để đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng và không bị ảnh hưởng xấu bởi việc mất khả năng trả nợ của bên đi vay, Ngân hàng TMCP đầu tư và phát triển Việt Nam đề nghị ông Ch, bà Th phải có nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền nợ là 741.630.406 đồng (đã khấu trừ 24.000.000 đồng tiền lãi ông Ch, bà Th đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 560.000.000 đồng, lãi trong hạn 66.640.000 đồng, lãi quá hạn 132.275.836 đồng, lãi phạt 6.714.570 đồng (lãi tạm tính đến ngày 30/9/2021) và tiếp tục trả lãi phát sinh từ ngày 01/10/2021 cho đến khi trả xong nợ cho Ngân hàng.
Trường hợp ông Ch, bà Th không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị Tòa án xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo thu hồi nợ.
Ngoài ra, không có yêu cầu nào khác.
Quá trình xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ ông Nguyễn Văn Ch và bà Chu Thị Th là bị đơn: Cố tình lẩn tránh, không hợp tác nên không ghi nhận được ý kiến của ông Ch, bà Th và ông Ch, bà Th cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ nào liên quan đến vụ án cũng như không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.
Phát biểu của Kiểm sát viên:
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:
Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các đương sự do chủ tọa phiên tòa đã công bố tại phiên tòa thể hiện việc Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam khởi kiện yêu cầu ông Ch, bà Th trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 560.000.000 đồng tiền nợ gốc và lãi suất phát sinh theo hợp đồng là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, 466 Bộ luật dân sự, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam khởi kiện ông Nguyễn Văn Ch và bà Chu Thị Th tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết về Tranh chấp HĐ vay tài sản là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập ông Ch, bà Th là bị đơn đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông Ch, bà Th vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi ông Ch, bà Th cư trú. Theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP, ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và căn cứ khoản 3 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 277 Bộ luật dân sự thì được coi là bị đơn cố tình giấu địa chỉ. Căn cứ khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt. Sau khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.
[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng đã cung cấp hợp đồng tín dụng số 01/2019/9753948/HĐTD ngày 04/6/2019 và hợp đồng thế chấp tài sản số 01/2017/9753948/HĐBĐ ngày 11/5/2017; văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số 01/2018/9753948/VBSĐBS ngày 04/5/2018; văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số 01/2019/9753948/SĐBS ngày 04/6/2019 thể hiện việc ông Ch, bà Th vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền là 560.000.000 đồng, mục đích tiêu dùng và sửa nhà.
Mặc dù không ghi nhận được ý kiến của ông Ch, bà Th về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam. Tuy nhiên, tại Kết luận giám định số:
173/KLGĐ-PC09 ngày 25/11/2020 và Tại Kết luận giám định số: 145/KLGĐ-PC09 ngày 25/8/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:
Chữ ký, chữ viết mang tên Nguyễn Văn Ch trong các tài liệu cần giám định ký hiệu A1, A2 so với chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Văn Ch trong tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1 là do cùng một người ký và viết ra.
Chữ ký, chữ viết mang tên Chu Thị Th trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A4 so với chữ ký, chữ viết đứng tên Chu Thị Th trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M4 là do cùng một người ký và viết ra.
Như vậy, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng vay tài sản” được quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự, nên có đủ căn cứ pháp lý xác định ngày 04/6/2019 ông Ch, bà Th ký hợp đồng tín dụng, vay tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam với số tiền là 560.000.000 đồng.
Quá trình thực hiện hợp đồng, đến kỳ hạn trả nợ nhưng ông Ch, bà Th không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên vay được quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự và vi phạm trong Hợp đồng tín dụng. Từ những phân tích trên, xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát và yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam là có căn cứ, nên cần chấp nhận, buộc ông Ch, bà Th phải trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam số tiền hiện còn nợ là 741.630.406 đồng (đã khấu trừ 24.000.000 đồng tiền lãi ông Ch, bà Th đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 560.000.000 đồng, lãi trong hạn 66.640.000 đồng, lãi quá hạn 132.275.836 đồng, lãi phạt 6.714.570 đồng (lãi tạm tính đến ngày 30/9/2021). Ông Ch, bà Th phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng kể từ ngày 01/10/2021 cho đến khi ông Ch, bà Th trả hết nợ cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ, ông Ch, bà Th ký “Hợp đồng thế chấp tài sản” số 01/2017/9753948/HĐBĐ ngày 11/5/2017; văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số 01/2018/9753948/VBSĐBS ngày 04/5/2018; văn bản sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp số 01/2019/9753948/SĐBS ngày 04/6/2019 thế chấp 01 xe ô tô khách hiệu FORD, màu trắng, biển kiểm soát 47B-019.70 và giấy đăng ký xe ô tô số 028318 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 27/4/2017 mang tên Nguyễn Văn Ch. Hợp đồng thế chấp tài sản xác lập tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật về nội dung cũng như hình thức theo quy định tại Điều 317; Điều 318; Điều 319 Bộ luật dân sự. Do vậy, thuộc trường hợp những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Hợp đồng thế chấp được xác lập phù hợp với quy định của pháp luật, nên tài sản thế chấp được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khi ông Ch, bà Th không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Nếu ông Ch, bà Th thanh toán đủ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam thì phía Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có nghĩa vụ trả lại giấy đăng ký xe ô tô số 028318 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 27/4/2017 mang tên Nguyễn Văn Ch liên quan đến tài sản thế chấp.
[3]. Về án phí và chi phí tố tụng khác: Do yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam được chấp nhận, nên buộc ông Ch, bà Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.
Trả lại cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 317; Điều 318; Điều 319; Điều 463 và khoản 1, 3, 5 Điều 466; khoản 2 Điều 470 Bộ luật dân sự;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam.
Buộc ông Nguyễn Văn Ch và bà Chu Thị Th trả cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 741.630.406 đồng (đã khấu trừ 24.000.000 đồng tiền lãi ông Ch, bà Th đã trả). Trong đó: Tiền nợ gốc 560.000.000 đồng, lãi trong hạn 66.640.000 đồng, lãi quá hạn 132.275.836 đồng, lãi phạt 6.714.570 đồng (lãi tạm tính đến ngày 30/9/2021).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Ch, bà Th còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông Ch, bà Th phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp ông Ch, bà Th không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam có quyền yêu cầu Chi cục THADS huyện Ea H’Leo xử lý tài sản thế chấp là 01 xe ô tô khách hiệu FORD, màu trắng, biển kiểm soát 47B-019.70 theo giấy đăng ký xe ô tô số 028318 do Công an tỉnh Đăk Lăk cấp ngày 27/4/2017 mang tên Nguyễn Văn Ch để thu hồi nợ.
Về chi phí giám định: Căn cứ Điều 159; khoản 2 Điều 161; khoản 1 Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự.
Ông Nguyễn Văn Ch, bà Chu Thị Th phải chịu 10.710.000 đồng tiền chi phí giám định (trong đó giám định lần 1 là 5.040.000 đồng và giám định lần 2 là 5.670.000 đồng).
Trả lại cho Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển Việt Nam 10.710.000 đồng tiền chí phí giám định đã nộp sau khi thu được từ ông Chính, bà Thủy.
Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 6 Điều 19; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Ông Nguyễn Văn Ch và bà Chu Thị Th phải chịu 33.665.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bắc Đăk Lăk 13.689.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2019/0001143 ngày 07/11/2019.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 129/2021/DSST
Số hiệu: | 129/2021/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về