Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng số 77/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 77/2023/DS-ST NGÀY 18/09/2023 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 18/9/2023 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 149/2023/TLST-DS, ngày 17/4/2023, về việc “Kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2023/QĐST-DS ngày 11/8/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 89/2023/QĐST- DS ngày 28/8/2023 giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần Phát Triển H.

Địa chỉ: Số 25 Nguyễn Thị Minh Khai, phường N, quận 1, TP HCM. Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Quốc T – Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Việt L – Chức vụ: Phó giám đốc phụ trách phòng giao dịch Ea H’Leo.

Ông L ủy quyền lại cho: Ông Cao Ngọc S – Chuyên viên quan hệ khách hàng. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Ông Lương Đức H, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1979. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Địa chỉ: Thôn 9b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Lương Đức T, sinh năm 1999. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Địa chỉ: Thôn 9b, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 12/8/2020 ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H ký hợp đồng tín dụng vay tại Ngân hàng TMCP Phát Triển H với số tiền là 430.000.000 đồng, lãi suất theo từng thời kỳ, lãi suất được điều chỉnh nếu có, thời hạn vay 24 tháng, mục đích vay đầu tư nông nghiệp.

Tính đến ngày 18/9/2023 ông H, bà H còn nợ tổng cộng gốc và lãi suất phát sinh là 621.222.921 đồng, trong đó 430.000.000 đồng tiền nợ gốc và 191.222.921 đồng tiền nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn.

Để đảm bảo cho khoản vay ông H, bà H đã thế chấp 02 quyền sử dụng đất số BK 042804 có diện tích 6152,8 m2 m2, tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 70 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 13/8/2013 cho hộ ông Đoàn Khắc Tr và bà Nguyễn Thị H (ngày 27/10/2017 ông Tr, bà H chuyển nhượng lại cho ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H) và số BA 848883 có diện tích 12770 m2 m2, tại thửa đất số 39, tờ bản đồ số 57 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 16/5/2011 cho hộ ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H.

Để đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng và không bị ảnh hưởng xấu bởi việc mất khả năng trả nợ của bên đi vay. Vì ông H, bà H vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên Ngân hàng TMCP Phát Triển H đề nghị ông H, bà H phải có nghĩa vụ trả toàn bộ số tiền nợ nói trên.

Trường hợp ông H, bà H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị Tòa án xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo thu hồi nợ.

Ngoài ra, không có yêu cầu nào khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án ông H, bà H là bị đơn trình bày:

Ông H, bà H thừa nhận ngày 12/8/2020 vợ chồng ông Huế, bà Hà có ký hợp đồng tín dụng vay tại Ngân hàng TMCP Phát Triển H số tiền là 430.000.000 đồng. Hiện tại ông H, bà H thừa nhận còn nợ 430.000.000 đồng tiền nợ gốc và tiền nợ lãi phát sinh.

Khi vay ông H, bà H thế chấp 02 quyền sử dụng đất số BK 042804 có diện tích 6152,8 m2 m2, tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 70 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 13/8/2013 cho hộ ông Đoàn Khắc Tr và bà Nguyễn Thị H (ngày 27/10/2017 ông Tr, bà H chuyển nhượng lại cho ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H) và số BA 848883 có diện tích 12770 m2 m2, tại thửa đất số 39, tờ bản đồ số 57 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 16/5/2011 cho hộ ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H.

Nay Ngân hàng khởi kiện, ông H, bà H thừa nhận còn nợ Ngân hàng số tiền nói trên, nhưng hiện nay điều kiện hoàn cảnh ông H, bà H đang gặp khó khăn chưa có tiền trả nợ ngay cho Ngân hàng, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa khẳng định:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ, Tòa án thực hiện đầy đủ và đúng trình tự theo quy định của pháp luật về tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các đương sự có trong hồ sơ vụ án do chủ tọa phiên tòa công bố tại phiên tòa thể hiện việc Ngân hàng TMCP Phát Triển H khởi kiện yêu cầu ông H, bà H trả cho Ngân hàng TMCP Phát Triển H 430.000.000 đồng tiền nợ gốc và lãi suất phát sinh theo hợp đồng là có căn cứ. Vì vậy, đề nghị HĐXX áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, 466 Bộ luật dân sự, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Phát Triển H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc Ngân hàng TMCP Phát Triển H khởi kiện ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết về Tranh chấp hợp đồng tín dụng là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông H, bà H đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, sau khi hòa giải ông H, bà H đã được đọc lại biên bản công khai chứng cứ và biên bản hòa giải, nhưng ông H, bà H không ký vào biên bản mà bỏ ra về. Sau đó Tòa án cũng đã tiến hành triệu tập ông H, bà H, anh T nhiều lần nhưng ông H, bà H, anh T vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi ông H, bà H cư trú. Theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được và tiến hành xét xử vắng mặt. Ngân hàng TMCP Phát Triển H có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng cung cấp hợp đồng tín dụng số 0575/20PGDEH/HĐTD ngày 12/8/2020; Đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 0575/20PGDEH/HĐTN/KUNN01 ngày 12/8/2020 thể hiện việc ông H, bà H vay tại Ngân hàng TMCP Phát Triển H số tiền là 430.000.000 đồng và ông H, bà H cũng đã thừa nhận có vay số tiền này, nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

Như vậy, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng vay tài sản” được quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự, nên có đủ căn cứ pháp lý xác định ngày 12/8/2020 ông H, bà H ký Hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ vay tại Ngân hàng TMCP Phát Triển H với số tiền là 430.000.000 đồng.

Quá trình thực hiện hợp đồng, đến kỳ hạn trả nợ nhưng ông H, bà H không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên vay được quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự và vi phạm trong Hợp đồng tín dụng. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Phát Triển H buộc ông H, bà H phải trả số tiền hiện còn nợ là 621.222.921 đồng, trong đó 430.000.000 đồng tiền nợ gốc và 191.222.921 đồng tiền nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn (lãi tạm tính đến ngày 18/9/2023). Ông H, bà H phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ kể từ ngày 19/9/2023 cho đến khi ông H, bà H trả hết nợ cho Ngân hàng TMCP Phát Triển H.

Tại 02 Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0575/20PGDEH/HĐBĐ, số 0576/20PGDEH/HĐBĐ ngày 12/8/2020 (đã được công chứng tại Văn phòng công chứng Nguyễn Thị Hương Thùy), ông H, bà H thế chấp 02 quyền sử dụng đất gồm: 01 quyền sử dụng đất số BK 042804 có diện tích 6152,8 m2 m2, tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 70 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 13/8/2013 cho hộ ông Đoàn Khắc Tr và bà Nguyễn Thị H (ngày 27/10/2017 ông Tr, bà H chuyển nhượng lại cho ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H) và 01 quyền sử dụng đất số BA 848883 có diện tích 12770 m2 m2, tại thửa đất số 39, tờ bản đồ số 57 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 16/5/2011 cho hộ ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất xác lập tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật về nội dung cũng như hình thức theo quy định tại Điều 317; Điều 318; Điều 319; Điều 325 Bộ luật dân sự; điểm a Điều 4; khoản 1 Điều 5; Điều 6; khoản 3 Điều 9; khoản 2 Điều 39 Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính phủ về việc đăng ký biện pháp bảo đảm.

Tại hợp đồng hợp đồng ủy quyền ngày 12/8/2020 anh Lương Đức T con ông H, bà H cũng đã ủy quyền cho ông H, bà H thế chấp các tài sản và có quyền xử lý các tài sản thế chấp để thực hiện nghĩa vụ trả nợ, hiện các tài sản thế chấp là tài sản đảm bảo cho khoản vay tại Ngân hàng TMCP Phát Triển H. Qua xem xét thẩm định và kiểm tra trên bản đồ tổng thể được lưu trữ tại UBND xã Ea Hiao các thửa đất trên thực tế đúng với vị trí, diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp, hiện do ông H, bà H quản lý sử dụng, không có tranh chấp với người thứ ba. Vì vậy, tài sản thế chấp được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khi ông H, bà H không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như đã cam kết thì tài sản thế chấp được xử lý để thu hồi nợ. Nếu ông H, bà H thanh toán đủ nợ gốc và lãi suất phát sinh thì Ngân hàng TMCP Phát Triển H có nghĩa vụ giải chấp tài sản thế chấp.

[3]. Về án phí và chi phí tố tụng khác: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên cần buộc ông H, bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí tố tụng khác theo quy định của pháp luật.

Ông H, bà H thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí DSST theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Phát Triển H tiền tạm ứng án phí và chi phí tố tụng đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 317; Điều 318; Điều 319; khoản 6 Điều 320; Điều 325; Điều 463 và khoản 1, 3, 5 Điều 466 Bộ luật dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Phát Triển H.

Buộc ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H trả cho Ngân hàng TMCP Phát Triển H số tiền 621.222.921 đồng, trong đó 430.000.000 đồng tiền nợ gốc và 191.222.921 đồng tiền nợ lãi trong hạn, lãi quá hạn (lãi tạm tính đến ngày 18/9/2023).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm là ngày 19/9/2023 ông H, bà H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng và khế ước nhận nợ, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông H, bà H phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 0575/20PGDEH/HĐBĐ, số 0576/20PGDEH/HĐBĐ ngày 12/8/2020 có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp ông Huế, bà Hà không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng TMCP Phát Triển H có quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là 02 quyền sử dụng đất gồm: quyền sử dụng đất số BK 042804 có diện tích 6152,8 m2 m2, tại thửa đất số 12, tờ bản đồ số 70 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 13/8/2013 cho hộ ông Đoàn Khắc Tị và bà Nguyễn Thị H (ngày 27/10/2017 ông Tr, bà H chuyển nhượng lại cho ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H) và số BA 848883 có diện tích 12770 m2 m2, tại thửa đất số 39, tờ bản đồ số 57 do UBND huyện Ea H’Leo cấp ngày 16/5/2011 cho hộ ông Lương Đức H và bà Nguyễn Thị H để thu hồi nợ.

Về chi phí tố tụng: Căn cứ Điều 155; khoản 2 Điều 156; khoản 1 Điều 157; khoản 1 Điều 158 Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông H, bà H phải chịu 1.200.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Phát Triển H 1.200.000 đồng tiền chi phí xem xét thẩm định đã nộp và đã chi, sau khi thu được từ ông H, bà H.

Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 6 Điều 19; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Trả lại cho Ngân hàng TMCP Phát Triển H 13.450.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2019/0011254 ngày 05/4/2023.

Ông H, bà H thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí DSST theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTUQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng số 77/2023/DS-ST

Số hiệu:77/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về