Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 74/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 74/2023/DS-ST NGÀY 18/09/2023 VỀ KIỆN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 18/9/2023 tại phòng xử án - Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 148/2023/TLST-DS, ngày 17/4/2023, về việc “Kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 110/2023/QĐST-DS ngày 11/8/2023 và quyết định hoãn phiên tòa số 88/2023/QĐST-DS ngày 28/8/2023 giữa:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngh, sinh năm 1963. Có đơn xin xét xử vắng mặt. Địa chỉ: Thôn 1, xã E, huyện H, tỉnh Đăk Lăk.

Bị đơn: Bà Trần Thị V. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Địa chỉ: Thôn 2, xã Đ, huyện E, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án bà Ngh là nguyên đơn trình bày:

Ngày 22/12/2017 bà Lê Thị Ngh cho bà Trần Thị V chốt giá cà phê với số lượng 700 kg cà phê nhân xô, bà Ngh đã giao đủ tiền cho bà V, bà V ký giấy xác nhận nợ và hẹn trả 700 kg cà phê nhân xô cho bà Ngh vào tháng 12/2018. Đến hẹn bà Ngh đã nhiều lần đến đòi nợ nhưng cho đến nay bà V vẫn chưa trả nợ cho bà Ngh. Nay bà Ngh yêu cầu bà V phải trả 700 kg cà phê nhân xô.

Ngoài ra, bà Ngh không có yêu cầu nào khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án bà V là bị đơn trình bày:

Bà V thừa nhận ngày 22/12/2017 bà V có chốt giá cà phê của bà Ngh với số lượng 700 kg cà phê nhân xô, bà V ký giấy xác nhận nợ và hẹn đến tháng 12/2018 trả nợ cho bà Ngh, nhưng hiện bà V đang bị bệnh không có khả năng trả nợ cho bà Ngh. Bà V xin hẹn trả nợ này cho bà Ngh vào năm 2024.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được kiểm tra xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Việc bà Lê Thị Ngh khởi kiện bà Trần Thị V tại Tòa án và Toà án thụ lý giải quyết về Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bà V đã được Tòa án triệu tập đến Tòa án để công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng bà V vẫn vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không thể tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự được mà tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi bà V cư trú. Theo quy định tại khoản 1 Điều 207, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án không tiến hành hòa giải được và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn. Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[2]. Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị V thừa nhận có ký giấy xác nhận nợ bà Lê Thị Ngh 700 kg cà phê nhân xô, các bên thỏa thuận thời hạn trả nợ vào tháng 12/2018. Do hiện tại bà V bị bệnh chưa có điều kiện trả nợ cho bà Ngh. Bà V hẹn trả nợ trong năm 2024, nhưng bà Ngh không đồng ý.

Căn cứ vào giấy nợ đề ngày 22/12/2017 do bà Ngh cung cấp và trong quá trình giải quyết vụ án bà V cũng đã thừa nhận có ký xác nhận nợ bà Ngh 700 kg cà phê nhân xô, cho đến nay vẫn chưa trả nợ cho bà Ngh nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Như vậy, có đủ căn cứ khẳng định, ngày 22/12/2017 bà V ký giấy xác nhận nợ bà Ngh 700 kg cà phê nhân xô, trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, các bên đã xác lập “Hợp đồng mua bán tài sản” được quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự.

Quá trình thực hiện hợp đồng, đến hạn trả nợ nhưng bà V không thực hiện đúng cam kết là vi phạm về nghĩa vụ trả nợ của bên mua tài sản được quy định tại Điều 440 Bộ luật dân sự. Từ những phân tích trên, xét yêu cầu khởi kiện của bà N là có căn cứ, nên cần chấp nhận.

[3]. Về lãi suất: Khoản nợ là cà phê nhân xô (tài sản là vật), nên không đề cập xem xét.

[4]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà Ngh được chấp nhận, nên bà V phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Giá cà phê nhân xô tại thời điểm xét xử là 67.800 đồng/kg (700 kg x 67.800 đồng/kg) = 47.460.000 đồng.

Tiền án phí DSST là (47.460.000 đồng x 5%) = 2.373.000 đồng. Trả lại cho bà N tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 430; Điều 440 Bộ luật dân sự;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị N.

Buộc bà Trần Thị V trả cho bà Lê Thị Ngh 700 kg cà phê nhân xô (Bảy trăm ki lô gam).

Về án phí: Căn cứ khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Bà Trần Thị V phải chịu 2.373.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho bà Lê Thị Ngh 875.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, theo biên lai số AA/2021/0011260 ngày 07/4/2023.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về kiện tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 74/2023/DS-ST

Số hiệu:74/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về