TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 39/2021/DS-ST NGÀY 27/12/2021 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN
Ngày 27/12/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 149/2021/TLST-DS, ngày 26/10/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 106/2021/QĐST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc Kiện đòi tài sản giữa:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1972; (có mặt) Trú tại: Thôn Thọ Khê, xã Đ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1982 và anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1980;
Cùng trú tại: Thôn Thọ Khê, xã Đ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Chị Q có mặt, anh H có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/10/2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị V trình bày:
Chị với vợ chồng chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Đức H có quan hệ họ hàng xa và cũng là hàng xóm với nhau. Năm 2011, vợ chồng chị Q và anh H có sang nhờ vay tiền của chị Viện. Do lúc đó gia đình chị Q, anh H làm ăn thua lỗ, vỡ nợ nên chị Viện có thương hoàn cảnh gia đình nhà chị Q và anh H nên có đồng ý cho vay. Sau khi thỏa thuận, chị Viện cho chị Q, anh H vay tiền và lập thành giấy vay tiền với nội dung như sau:
Số tiền vay: 120.000.000đ;
Lãi vay: không có thỏa thuận về lãi.
Thời hạn vay là 70 ngày từ ngày làm giấy vay tiền. Ngày lập giấy vay tiền: ngày 07/12/2011.
Sau khi lập giấy vay tiền, chị Viện đã giao cho chị Q số tiền như tại giấy vay tiền trên. Sau đó, chị Q có trả lãi được chị Viện một vài tháng, có tháng trả, có tháng không, do gia đình chị Q lúc đó khó khăn nên chị Viện cũng không đòi ngay. Tuy nhiên, chị Q vài năm sau vẫn không trả tiền cho chị Viện, đến khoảng đến năm 2014-2015 thì vợ chồng chị Q và anh H không trả cho chị Viện thêm được bất cứ khoản tiền gốc, tiền lãi nào. Chị Viện có nhiều lần sang đòi nhưng chị Q và anh H không trả, anh chị còn thách thức, đố vợ chồng chị Viện làm gì được. Sau nhiều lần nói chuyện, chị Q và anh H vẫn cố tình trây ì không chịu trả tiền, nay chị Nguyễn Thị V đề nghị Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh buộc chị Nguyễn Thị Q, anh Nguyễn Đức H phải trả cho chị số tiền gốc là 120.000.000đ (Một trăm hai mươi triệu đồng), không yêu cầu về lãi.
Về án phí: Chị Viện đề nghị bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Về phía bị đơn là chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Đức H trình bày: Năm 2006, do cần tiền để kinh doanh pha gỗ nên vợ chồng chị Q và anh H có vay của chị Nguyễn Thị V 02 lần tiền với số tiền như sau:
Lần thứ nhất, vợ chồng chị Q và anh H vay của chị Viện số tiền 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng chẵn) với lãi suất là 2.5%/tháng.
Lần thứ hai, vợ chồng chị Q và anh H vay của chị Viện số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng chẵn) với lãi suất là 4.500đ/triệu/ngày.
Sau khi vay từ năm 2006, vợ chồng chị Q và anh H vẫn trả lãi cho chị Viện thường xuyên hàng tháng với lãi suất đã thỏa thuận như trên. Đến hết năm 2011, vợ chồng chị Q và anh H đã trả cho chị Viện tổng số tiền là 250.000.000đ là tiền lãi, sau đó gia đình chị Q và anh H kinh tế khó khăn nên không trả được nữa, chị Viện cũng không có ý kiến gì. Đến năm 2012, chị Viện lợi dụng lúc chị Q không để ý đã sang nhà chị Q bảo chị Q ký vào tờ giấy trắng, sau đó điền số tiền như tại giấy đã gửi cho Tòa án. Từ khi ký giấy đó, chị Viện không nói gì cũng không đòi tiền chị Q và anh H nữa. Đến năm 2013, chị Viện có sang đòi thì gia đình chị Q và anh H có thu xếp trả cho chị Viện thêm 02 lần, một lần 10.000.000đ và một lần 5.000.000đ. Nay, chị Q và anh H cho rằng tổng số anh chị đã trả cho chị Viện số tiền là 265.000.000đ (Hai trăm sáu lăm triệu đồng) cả gốc và lãi, anh chị không còn nợ gì chị Viện nữa nên không đồng ý trả tiền cho chị Viện.
Tại phiên toà, nguyên đơn vẫn giữ nguyễn toàn bộ quan điểm và không trình bày ý kiến gì thêm như tại đơn khởi kiện, những lời trình bày tại Toà án; bị đơn đã được xem lại Giấy vay tiền lập ngày 07/12/2011. Cả chị Q, anh H đều xác nhận đây là chữ viết của chị Q, tuy nhiên, chị Q, anh H cho rằng khoản vay này anh chị đã trả cả gốc và lãi là 265.000.000đ (Hai trăm sáu lăm triệu đồng); nay anh, chị không chấp nhận trả số tiền 120.000.000đ (Một trăm hai mươi triệu đồng) như nguyên đơn trình bày; đề nghị Toà án xem xét bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa là đúng pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của nguyên đơn, bị đơn là đúng pháp luật.
Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điều 26, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Áp dụng điều 255, 256 Bộ luật dân sự năm 2005. Áp dụng điều 166, 688 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị V.
- Buộc chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Đức H phải có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị V số tiền 120.000.000đ.
- Miễn toàn bộ án phí cho chị Q, anh H do đây là đối tượng được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Bị đơn là chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Đức H có nơi cư trú tại thôn Thọ Khê, xã Đ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị V đề nghị Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh giải quyết việc tranh chấp kiện đòi tài sản với chị Q và anh H. Do vậy vụ án tranh chấp kiện đòi tài sản giữa chị Nguyễn Thị V với vợ chồng chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Đức H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
[2] Tại “Giấy vay tiền” đề ngày 07/12/2011 đã thể hiện chị Nguyễn Thị Q có vay của chị Nguyễn Thị V tổng số tiền là 120.000.000đ, thời hạn vay: 70 ngày, lãi suất: thoả thuận.
Do chị Q đã ký vào giấy vay nợ nhưng không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ nên chị Viện đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc chị Q cùng chồng là anh Nguyễn Đức H phải trả số tiền gốc là 120.000.000đ, không yêu cầu lãi suất. HĐXX nhận thấy yêu cầu này của chị Viện là có căn cứ và phù hợp với quy định tại điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền đòi lại tài sản nên cần được chấp nhận để buộc chị Viện cùng chồng là anh H phải trả cho chị Viện tổng số tiền là 120.000.000đ.
[3] Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Đức H có ý kiến cho rằng vợ chồng anh chị có vay của chị Viện 02 lần với tổng số tiền là 110.000.000 đồng từ năm 2006. Sau khi vay tiền, vợ chồng anh chị có trả lãi cho chị Viện thường xuyên hàng tháng với lãi suất đã thỏa thuận với chị Viện. Đến hết năm 2011, vợ chồng chị Q và anh H cho rằng đã trả cho chị Viện tổng số tiền là 250.000.000đ là tiền lãi, sau đó gia đình chị Q và anh H kinh tế khó khăn nên không trả được nữa, chị Viện cũng không có ý kiến gì. Đến năm 2012, chị Viện lợi dụng lúc chị Q không để ý đã sang nhà chị Q bảo chị Q ký vào tờ giấy trắng, sau đó điền số tiền như tại giấy đã gửi cho Tòa án. Từ khi ký giấy đó, chị Viện không nói gì cũng không đòi tiền chị Q và anh H nữa. Đến năm 2013, chị Viện có sang đòi thì gia đình chị Q và anh H có thu xếp trả cho chị Viện thêm 02 lần, một lần 10.000.000đ và một lần 5.000.000đ. Nay, chị Q và anh H cho rằng tổng số anh chị đã trả cho chị Viện số tiền là 265.000.000đ (Hai trăm sáu lăm triệu đồng) cả gốc và lãi, anh chị không còn nợ gì chị Viện nữa nên không đồng ý trả tiền cho chị Viện.
Tuy nhiên, chị Q và anh H không cung cấp được cho Toà án bất cứ tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho ý kiến trên. Do vậy, HĐXX không có căn cứ để chấp nhận ý kiến của chị Q và anh H.
[4] Về án phí: Vì yêu cầu của chị Viện được chấp nhận nên cần hoàn trả cho chị Viện số tiền tạm ứng án phí mà chị Viện đã nộp tại Cơ quan Thi hành án.
Đối với nghĩa vụ về án phí của chị Q và anh H: Xét thấy hộ gia đình anh Nguyễn Đức H và chị Nguyễn Thị Q là hộ nghèo về thu nhập theo Giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo số 05/GCN-HN ngày 02/01/2021 của UBND xã Đ, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Đây là đối tượng được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Do vậy, chị Q và anh H được miễn thực hiện nghĩa vụ về án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điều 255, 256 Bộ luật dân sự năm 2005. Căn cứ điều 166, 688 Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ điều 235, 264, 266, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị V.
2. Buộc chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Đức H phải có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị V số tiền 120.000.000đ (Một trăm hai mươi triệu đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30, Luật thi hành án dân sự.
3. Về án phí: Hoàn trả cho chị Nguyễn Thị V 3.000.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số AA/2021/0004101, ngày 26/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Phong.
Chị Nguyễn Thị Q và anh Nguyễn Đức H không phải thực hiện nghĩa vụ về án phí.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án.
Bản án về kiện đòi tài sản số 39/2021/DS-ST
Số hiệu: | 39/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về