Bản án về không công nhận là vợ chồng số 96/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 96/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/12/2021 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG

Ngày 17 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 195/2021/TLST-HNGĐ ngày 31/5/2021 về việc: “Không công nhận là vợ chồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Chị K’ Đại H, sinh năm 1999 TDP. S, thị trấn Đ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

+ Bị đơn: Anh Tân Văn T, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn 1, xã G, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

Hiện đang chấp hành án tại trại giam Đại Bình – huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.

(Chị K’ Đại H và anh T vắng mặt và đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị K’ Đại H trình bày: Chị và anh Tân Văn T xây dựng gia đình với nhau năm 2014 trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới theo phong tục truyền thống nhưng không có đăng ký kết hôn do không đủ tuổi kết hôn theo quy định. Quá trình chung sống hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T nhiều lần đánh đập chị nên chị đã đưa con về ở nhà mẹ đẻ và vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Nay, chị K’ Đại H xác định mâu thuẫn giữa chị với anh T đã trầm trọng, hai bên không còn tình cảm với nhau nên không thể cải thiện để chung sống với nhau được. Do vậy, chị K’ Đại H yêu cầu Tòa án giải quyết dứt điểm quan hệ hôn nhân giữa chị với anh T theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị và anh T có 01 người con chung là Tân Huỳnh A, sinh ngày 21/12/2015. Khi ly hôn, chị K’ Đại H yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị T xác định, quá trình chung sống giữa chị và anh T không có tài sản chung và cũng không có nợ ai, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo biên bản lấy lời khai, bị đơn anh Tân Văn T trình bày: Anh và chị K’ Đại H quen biết, tự nguyện tìm hiểu nhau được 07 tháng thì chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2014 nhưng không có đăng ký kết hôn. Khi về chung sống với nhau, anh và chị K’ Đại H sống cùng bố, mẹ anh tại xã Gia Lâm, huyện Lâm Hà đến năm 2018 thì hai bên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do khi xảy ra bất hòa, hai bên đều yêu cầu được nuôi con nhưng không thống nhất nên xảy ra bất hòa. Nay, chị K’ Đại H yêu cầu giải quyết không công nhận là vợ chồng với anh thì anh đồng ý.

Về con chung: Quá trình chung sống, anh và chị K’ Đại H có 01 con chung là Tân Huỳnh A, sinh ngày 21/12/2015. Khi ly hôn, anh T đồng ý giao con chung cho chị K’ Đại H trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh T xác định, quá trình chung sống gia anh và chị K’ Đại H không có tài sản chung và cũng không có nợ ai, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không hòa giải được do bị đơn anh T vắng mặt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị K’ Đại H, xử không công nhận chị K Đại Hàn và anh Tân Văn T là vợ chồng; Về con chung: Đề nghị giao con chung là Tân Huỳnh A, sinh ngày 21/12/2015 cho chị K’ Đại H trực tiếp nuôi dưỡng; anh T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Về án phí: Chị K’ Đại H phải chịu tiền án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa, Nguyên đơn chị K’ Đại H và bị đơn anh T vắng mặt và đều có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Hàn và bị đơn anh T theo thủ tục chung là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị K’ Đại H và anh T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2014, trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn do tại thời điểm chung sống với nhau thì chị K’ Đại H không đủ tuổi đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống đến năm 2018 thì anh, chị phát sinh mâu thuẫn và không chung sống với nhau cho đến nay. Xét thấy, khi xảy ra mâu thuẫn thì từ tháng 11/2018, chị K’ Đại H đã đưa con về nhà mẹ đẻ sinh sống. Trong thời gian này, chị Hàn và anh T xảy ra tranh chấp về quyền nuôi con nên chị Hàn tố giác sự việc đến công an. Quá trình điều tra xác định có yếu tố cấu thành tội phạm nên anh T bị khởi tố, truy tố và xét xử về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” và bị xử 36 tháng tù theo Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2020/HS-ST ngày 28/10/2020 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà. Từ đó đến nay mâu thuẫn giữa hai bên vẫn không thể cải thiện được. Nay chị Hàn xác định mâu thuẫn giữa chị và anh T đã trầm trọng nên chị yêu cầu giải quyết dứt điểm quan hệ hôn nhân giữa chị với anh T theo quy định của pháp luật thì anh T đồng ý. Do quan hệ hôn nhân của chị K’ Đại H và anh T được xác lập sau ngày 03/01/1987 nhưng không có đăng ký kết hôn nên cần căn cứ khoản 1 Điều 14, Khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 tuyên bố không công nhận chị K’ Đại H và anh Tân Văn T là vợ chồng là phù hợp.

[3] Về con chung: Chị Hàn và anh T cùng xác định, quá trình chung sống vợ chồng có 01 con chung là Tân Huỳnh A, sinh ngày 21/12/2015. Khi ly hôn, chị Hàn yêu cầu được trực tiếp nuôi con thì anh T đồng ý. Nhận thấy, hiện nay anh T đang trong thời gian chấp hành án; hơn nữa, từ khi vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay, cháu Huỳnh Anh vẫn ở với mẹ và phát triển bình thường. Do vậy, để đảm bảo điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ ổn định, cần giao con chung cho chị K’ Đại H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Việc cấp dưỡng nuôi con do các đương s đều không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra để xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị K’ Đại H và anh T cùng xác định, quá trình chung sống anh, chị không có tài sản chung và cũng không có nợ ai, các đương s đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra để xem xét.

[5] Về án phí: Chị K’ Đại H phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm về việc giải quyết không công nhận là vợ chồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53; Điều 54; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 147, Điều 203; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 và Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Tuyên bố không công nhận chị K’ Đại H và anh Tân Văn T là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao con chung là Tân Huỳnh A, sinh ngày 21/12/2015 cho chị K’ Đại H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; anh Tân Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị K’ Đại H phải chịu 300.000đ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/0015335 ngày 31/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Chị K’ Đại H đã nộp đủ tiền án phí.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (17/12/2021), nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về không công nhận là vợ chồng số 96/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:96/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về