Bản án về không công nhận là vợ chồng số 34/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 34/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN LÀ VỢ CHỒNG

Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số:

523/2021/TLHNGĐ-ST ngày 12 tháng 11 năm 2021 về việc “Yêu cầu không công nhận là vợ chồng” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2022/QĐXX-ST ngày 16/6/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Vũ Thị Ngọc A, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Số 59/25 đường An Dương Vương, Phường 2, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1974.

Địa chỉ: Thửa đất số 281 – TBĐ 21, đường Gio An, Phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản tự khai, lời trình bày của bà Vũ Thị Ngọc A và các tài liệu có trong hồ sơ thì: Bà và ông Nguyễn Văn Th chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2014 tại Đà Lạt, không có đăng ký kết hôn, không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Cuộc sống chung hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bà và ông Th không hòa hợp với nhau về tính cách nên thường xảy ra cãi vã, mặt khác bà và ông Th không có tiếng nói chung trong việc làm ăn kinh tế nên xảy ra mâu thuẫn. Hiện bà và ông Th đã không còn chung sống với nhau từ khoảng tháng 10/2019 cho đến nay nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà và ông Th là vợ chồng.

Về con chung: Bà A và ông Th có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thu A, sinh ngày 29/9/2014 và Nguyễn Vũ Minh A, sinh ngày 11/4/2018. Bà A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi các con đủ tuổi thành niên theo quy định của pháp luật. Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con, bà và ông Th đã thỏa thuận nội dung ông Th có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con một lần số tiền 2.000.000.000đ, ông Th đã giao đủ cho bà số tiền 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng) để cấp dưỡng nuôi con một lần nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà và ông Th tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà Ngọc A xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo bản tự khai, lời trình bày của ông Nguyễn Văn Th và các tài liệu có trong hồ sơ thì: Ông và bà Vũ Thị Ngọc A chung sống với nhau từ năm 2014, không tổ chức lễ cưới như lời bà Ngọc A trình bày là đúng, cuộc sống chung hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông và bà Ngọc A bất đồng quan điểm sống, không thể hòa hợp. Nay bà Vũ Thị Ngọc A yêu cầu Tòa án không công nhận ông và bà Ngọc A là vợ chồng thì ông cũng đồng ý.

Về con chung: Ông Th và bà Ngọc A có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thu A, sinh ngày 29/9/2014 và Nguyễn Vũ Minh A, sinh ngày 11/4/2018. Hiện các con còn nhỏ và đang ở với bà Ngọc A nên ông đồng ý để bà Vũ Thị Ngọc A được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung cho đến khi các con đủ tuổi thành niên theo quy định của pháp luật. Về cấp dưỡng nuôi con, ông và bà Ngọc A đã thỏa thuận với nhau ông sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi 02 con một lần với số tiền 2.000.000.000đ, ông đã giao đủ số tiền trên cho bà Ngọc A và không có yêu cầu gì khác.

Về tài sản chung: Ông Th và bà Ngọc A tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông Th xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa;

Nguyên đơn bà Vũ Thị Ngọc A và bị đơn ông Nguyễn Văn Th cùng giữ nguyên yêu cầu Tòa án không công nhận ông, bà là vợ chồng. Về con chung bà Vũ Thị Ngọc A và ông Nguyễn Văn Th thỏa thuận bà Anh là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Vũ Thị Ngọc A đã nhận số tiền 2.000.000.000đ ông Nguyễn Văn Th cấp dưỡng nuôi con 01 lần, bà A không yêu cầu gì thêm. Về tài sản chung: Bà A và ông Th tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung:

Bà A và ông Th cùng xác định vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử là đúng theo quy định; Quan điểm giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vũ Thị Ngọc A. Tuyên bà Vũ Thị Ngọc A và ông Nguyễn Văn Th không phải là vợ chồng; Giao 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thu A, sinh ngày 29/9/2014 và Nguyễn Vũ Minh A, sinh ngày 11/4/2018c cho bà Vũ Thị Ngọc A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ tuổi thành niên theo quy định của pháp luật; Về cấp dưỡng nuôi con bà Vũ Thị Ngọc A không yêu cầu nên không đề cấp xem xét; về tài sản chung: hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập; Về nợ chung: Hai bên xác định không có nên không đề cập giải quyết; Về án phí: buộc bà Vũ Thị Ngọc A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà Vũ Thị Ngọc A khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết không công nhận bà và ông Nguyễn Văn Th, nơi cư trú: Thửa đất số 281 – TBĐ 21, đường Gio An, Phường 5, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng là vợ chồng, yêu cầu giải quyết về con chung nên xác định quan hệ tranh chấp là “Không công nhận là vợ chồng” theo quy định tại khoản 7, điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Vũ Thị Ngọc A và ông Nguyễn Văn Th chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2014. Trong quá trình chung sống và cho đến nay ông, bà không đăng ký kết hôn, không tổ chức lễ cưới. Theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì “Nam nữ đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng...”. Nay bà Vũ Thị Ngọc A yêu cầu không công nhận vợ chồng với ông Nguyễn Văn Th, ông Th đồng ý. Vì vậy căn cứ Điều 14 và Điều 53 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của bà Vũ Thị Ngọc A, tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Ngọc A và ông Th.

[3] Về con chung: Hai bên xác định có 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thu A, sinh ngày 29/9/2014 và Nguyễn Vũ Minh A, sinh ngày 11/4/2018. Bà Ngọc A có nguyện vọng nuôi con và ông Thu đồng ý giao con cho bà Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Nguyễn Vũ Thu A cũng có nguyện vọng được ở với mẹ nên giao con cho bà Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung cho đến khi các con đủ tuổi thành niên theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự đã tự thỏa thuận ông Nguyễn Văn Th có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi 02 con một lần với số tiền 2.000.000.000đ, và đã tự thực hiện xong, ông Th đã giao đủ cho bà Ngọc A số tiền 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng) để cấp dưỡng nuôi con một lần, tại phiên tòa, bà Ngọc A không có yêu cầu gì thêm về phần cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập để giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập để giải quyết.

[5] Về nợ chung: Hai bên xác định không có nên không đề cập để giải quyết. [6] Về án phí: Bà Vũ Thị Ngọc A phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 - Căn cứ khoản 7 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 14; 15; 53; 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ điều 26 Luật thi hành án.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1/ Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Vũ Thị Ngọc A và ông Nguyễn Văn Th 2/ Về con chung: Giao con 02 con chung tên Nguyễn Vũ Thu A, sinh ngày 29/9/2014 và Nguyễn Vũ Minh A, sinh ngày 11/4/2018 cho bà Vũ Thị Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi các con đủ tuổi thành niên theo quy định của pháp luật.

Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con, không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Bà Vũ Thị Ngọc A phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm (được trừ vào số tiền 300.000đ bà Ngọc A đã tạm nộp theo biên lai thu số 0001212 ngày 12/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt) bà Ngọc A đã nộp đủ.

4. Về quyền kháng cáo: Bà Vũ Thị Ngọc A và ông Nguyễn Văn Th được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về không công nhận là vợ chồng số 34/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về