Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai (nguyên đơn không thuộc đối tượng được bồi thường về đất) số 791/2020/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 791/2020/HC-PT NGÀY 29/12/2020 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 467/2020/TLPT-HC ngày 27 tháng 8 năm 2020 về việc “Khiếu kiện Quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.Do Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2020/HC-ST ngày 09 tháng 6 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo;

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 4118/2020/QĐPT-HC ngày 02 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Người khởi kiện:Bà Võ Thị C (vắng mặt).

Địa chỉ: Số 1/2, khu vực T, phường HT, thị xã NB, tỉnh Hậu Giang.

Người đại diện theo ủy quyền của bà C: Ông Trần Việt H(có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: LK 02-41, đường C3, khu dân cư MC, khóm M, phường B, thành phố ST, tỉnh Sóc Trăng.

Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã NB (nay là thành phố NB) tỉnh Hậu Giang (vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đăng H – Chức vụ: Chủ tịch (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Diệp Minh T, sinh năm 1974 – Chức vụ: Phó Chủ tịch (có mặt).

Địa chỉ: số 09 đường BTH, số 09, đường BTH, phường NB, thị xã NB, tỉnh Hậu Giang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/Trung tâm Nông nghiệp Mùa X (có đơn xin vắng mặt).

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Minh H – Chức vụ: Quyền Giám đốc (có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Số 236, đường HHT, ấp MX, xã TPH, huyện PH, tỉnh Hậu Giang.

2/ Bà Võ Thị M(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 19/5, xã Kế An, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3/ Bà Võ Thị H(vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp MX, xã TPH, huyện PH, tỉnh Hậu Giang.

4/ Bà Võ Thị L (vắng mặt).

5/ Ông Võ Văn V (vắng mặt).

6/ Bà Võ Thị Ch (vắng mặt).

7/ Ông Võ Văn Q (vắng mặt).

8/ Ông Võ Thanh T (vắng mặt).

9/ Bà Võ Thị Lâm S (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Khu vực B, phường HT, thành phố NB, tỉnh Hậu Giang.

10/ Bà Võ Thị Tâm T1(vắng mặt).

Địa chỉ: Khu vực T, phường HT, thành phố NB, tỉnh Hậu Giang.

Người kháng cáo:Ông Trần Việt H là người đại diện theo ủy quyền của Bà Võ Thị C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Người khởi kiện – Bà Võ Thị C và người đại diện theo ủy quyền là ông Trần Việt H trình bày:

Năm 1977 Bà Võ Thị C được cha là ông Võ Văn S (đã chết năm 2003) cho phần đất bờ kênh chạy dọc từ đầu kinh ST đến Lâm trường Mùa X với diện tích 4.390m2 để làm rẫy và trồng cây lâu năm.

Năm 2000, Lâm trường Mùa X có dự án nâng cấp, mở rộng lộ đoạn từ đầu kinh ST đến Lâm trường Mùa X và có lấy một phần trong phần đất nêu trên với diện tích 1.317m2 để làm lộ. Khi đó bà C khiếu nại nhiều nơi để yêu cầu bồi thường đối với phần đất bị thu hồi này nhưng không ai xem xét và giải quyết. Tháng 5/2017, bà C được Ủy ban nhân dân (gọi tắt là UBND) phường HT mời đến UBND phường để giải quyết, theo đó UBND phường yêu cầu bà C đốn cây trên phần đất diện tích còn lại là 3.073m2 để làm lộ, nhưng không đề cập gì tới phần đất đã thu hồi của bà C và cũng không bồi thường cây trồng cho bà C.

Nhận thấy việc lấy đất của bà C không có bồi thường về đất và cây trồng cho bà C đã gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà C nên bà khiếu nại và được Chủ tịch UBND thị xã NB giải quyết bằng Công văn 1186/UBND- TCD (gọi tắt là Công văn số 1186) ngày 15/11/2018. Không đồng ý với Công văn 1186 ngày 15/11/2018 của Chủ tịch UBND thị xã NBbà C khiếu nại tiếp tục và được Chủ tịch UBND thị xã NB giải quyết bằng Quyết định 3023/QĐ-UBND ngày 30/11/2018 (gọi tắt là Quyết định 3023).

Nay Bà Võ Thị C yêu cầu hủy Công văn số 1186/UBND-TCD ngày 15/11/2018 (gọi tắt là Công văn 1186) của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (gọi tắt là UBND) thị xã NB, tỉnh Hậu Giang về việc trả lời đơn khiếu nại của Bà Võ Thị C và hủy Quyết định số 3023 ngày 30/11/2018 của Chủ tịch UBND thị xã NB, tỉnh Hậu Giang về việc giải quyết khiếu nại của Bà Võ Thị C (lần đầu).

Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện Chủ tịch UBND thị xã NBtrình bày:

Đối với yêu cầu bồi thường phần đất phía trên tiếp giáp lộ hiện hữu rộng khoảng 3m và dài khoảng 250m do bị ảnh hưởng công trình: Nâng cấp, sửa chữa đường vào Trung tâm Nông nghiệp Mùa X. Căn cứ vào Sổ đăng ký ruộng đất ngày 09/7/1984, các hệ thống bản đồ 299 và 205, hệ thống bản đồ đo đạc tổng thể hiện nay và kết quả xác minh thực tế thì nguồn gốc sử dụng đất không thuộc quyền sử dụng của hộ ông Võ Văn S (cha bà C) và hộ bà C. Do đó, không xem xét giải quyết đối với yêu cầu bồi thường đất do bị ảnh hưởng công trình nâng cấp, sửa chữa đường vào Trung tâm Nông nghiệp Mùa X đối với bà C là đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Tòa án giữ nguyên Công văn số 1186 ngày 15/11/2018 của Chủ tịch UBND thị xã NB và Quyết định số 3023 ngày 30/11/2018 của Chủ tịch UBND thị xã NB.

Người đại diện của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trung tâm Nông nghiệp Mùa X trình bày:Nông trường Mùa X được thành lập từ năm 1976, đến năm 1983 chuyển thành Lâm trường Mùa X, đến năm 2002 là Khu II thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc H, năm 2011 thành lập Trung tâm Nông nghiệp Mùa X cho đến nay. Trước đây, khi mới thành lập Nông trường Mùa X được Nhà nước cho đào con kênh chiều ngang khoảng 10m và lấy đất làm đường đi vào nông trường, Lâm trường Mùa X có thỏa thuận trồng cây ăn chia giữa ông Tư S. Đến năm 1996-1997 Lâm trường Mùa X có làm đường đá cấp phối chiều ngang 2m từ kênh giáp Quốc lộ 1A đến trụ sở làm việc của lâm trường, thời điểm này hợp đồng đó hết hạn, từ khi hết hạn thì Trung tâm Nông nghiệp Mùa X không còn thỏa thuận ăn chia về việc trồng cây với gia đình bà C nhưng gia đình bà C vẫn còn trồng Tre cặp mé kênh dọc theo tuyến lộ. Năm 1996, Ủy ban nhân dân tỉnh Cần Thơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Lâm trường Mùa X, nội dung trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không liên quan đến diện tích đất của Bà Võ Thị C.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Võ Thị M, Bà Võ Thị H, bà Võ Thị L, ông Võ Văn V, bà Võ Thị Ch, ông Võ Văn Q, ông Võ Thanh T, bà Võ Thị Lâm S, bà Bà Võ Thị Tâm T1 trình bày:

Phần đất bà C đang yêu cầu bồi thường là của cha, mẹ của các ông, bà là ông Tư S và bà Của nhận sang nhượng của ông Tư T vào năm 1968, thời điểm sang nhượng không có làm giấy tờ gì. Khoảng năm 1975 thì ông Tư S có lái đò ngang kinh Thái H. Sau đó cha, mẹ của các ông, bà cho lại Bà Võ Thị C một phần đất diện tích ngang 10m, chiều dài 435m. Đến khoảng năm 1977-1978 thì bà C trồng Mía, đến năm 1979 thì bà C hợp đồng trồng Bạch Đằng, Tre và Trúc ăn chia với lâm trường. Bà C chỉ trồng cây Bạch Đằng ăn chia với lâm trường khoảng 4 năm thì lâm trường cho gia đình bà C luôn, không tiếp tục ăn chia Bạch Đằng nữa. Vào năm 2003, Nhà nước làm đường đi vào lâm trường, khi đó bà C không được bồi thường nhưng trên đất có 02 căn nhà cặp bờ kênh. Phần đất này thì ông Sương và bà C chưa đi kê khai cấp quyền sử dụng đất nhưng bà C có hộ khẩu tại phần đất này. Phần đất này cha, mẹ các ông, bà đã cho bà C nên các ông, bà không tranh chấp gì, nếu Nhà nước có bồi thường thì các ông, bà đồng ý cho bà C nhận tiền bồi thường. Các ông, bà yêu cầu được xét xử vắng mặt trong suốt thời gian giải quyết vụ án.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2020/HC-ST ngày 09/6/2020, Toà án nhân dân tỉnh Hậu Giang quyết định:

Căn cứ vào:

Các Điều 30, Điều 32, Điều 116, Điều 158, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 206, Điều 348 của Luật Tố tụng hành chính 2015;

Khoản 1 Điều 18 của Luật Khiếu nại năm 2011; Điều 75, Điều 100 Luật Đất đai 2013;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về quy định mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Võ Thị C về việc yêu cầu Tòa án hủy Công văn 1186/UBND-TCD ngày 15/11/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã NB (nay là thành phố NB), tỉnh Hậu Giang và Quyết định số 3023/QĐ-UBND ngày 30/11/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã NB (nay là thành phố NB), tỉnh Hậu Giang.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, về chi phí đo đạc thẩm định và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 03/7/2020, ông Trần Việt H là người đại diện theo ủy quyền của Bà Võ Thị Ccó đơn kháng cáomột phần bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm liên quan đến các yêu cầu khởi kiện của của người khởi kiện không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa:

- Việc tiến hành tố tụng của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử, thư ký đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng; các đương sự chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng, theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

- Về nội dung:Việc bà C cho rằng nguồn gốc đất là của gia đình bà C do ông Huỳnh Văn Ph ký xác nhận nguồn gốc đất vào ngày 28/11/2002 là chưa đủ căn cứ. Ông Ph chỉ đại diện cho Nông trường Mùa X thỏa thuận trồng cây ăn chia với ông Tư S chứ không có thẩm quyền xác nhận đất là của ai. Phía bà C không cung cấp được giấy tờ mua bán chuyển nhượng cũng như đăng ký, kê khai đối với phần đất này vì vậy Ủy ban nhân dân thị xã NB ban hành Quyết định số 3083/QĐ-UBND ngày 12/12/2018 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư (đợt 5) Công trình: Nâng cấp sửa chữa đường vào Trung tâm Nông nghiệp Mùa X với chi phí bồi thường, hỗ trợ tiền cây trồng với số tiền 118.494.000 đồng còn phần đất thì xác định đất do Nhà nước quản lý nên không bồi thường là có căn cứ. Công văn số 1186/UBND-TCD ngày 15/11/2018 (của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (gọi tắt là UBND) thị xã NB, tỉnh Hậu Giang về việc trả lời đơn khiếu nại của Bà Võ Thị C và Quyết định số 3023/QĐ-UBND ngày 30/11/2018 của Chủ tịch UBND thị xã NB, tỉnh Hậu Giang về việc giải quyết khiếu nại của Bà Võ Thị C (lần đầu) là có căn cứ đúng pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Kháng cáo của bà C không có cơ sở chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015: không chấp nhận kháng cáo của Bà Võ Thị C; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ông Diệp Minh T trình bày: Đất này có nguồn gốc của Nhà nước, sau đó giao Nông trường Mùa X quản lý, trong giai đoạn đó Nông trường Mùa X có hợp đồng với ông Tư S là ba của Bà Võ Thị C để trồng bạch đàn ăn chia. Đối với đất hành lang ven kênh căn cứ vào các hồ sơ địa chính không có giấy chứng nhận nào thể hiện đất này là của bà C. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Bà Võ Thị C. Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến trình bày và kết quả tranh tụng của đương sự, của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Đơn kháng cáo, nghĩa vụ án phí đương sự thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm có một số đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự này đã ủy quyền cho người khác tham gia phiên tòa hoặc được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai hoặc có đơn đề nghị vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[1.3] Tại đơn kháng cáo, Bà Võ Thị C ghihủy một phần bản án sơ thẩm liên quan đến các yêu cầu khởi kiện của của người khởi kiện. Hội đồng xét xử xét thấy toàn bộ các nội dung của bản án sơ thẩm đều liên quan đến yêu cầu khởi kiện của bà C. Do đó, Hội đồng xét xử xác định bà C kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Ngày 15/11/2018, Chủ tịch UBND thị xã NB ban hành Công văn 1186/UBND-TCD (gọi tắt là Công văn số 1186) giải quyết khiếu nại của Bà Võ Thị C. Không đồng ý với Công văn 1186 của Chủ tịch UBND thị xã NBbà C tiếp tục khiếu nại và được Chủ tịch UBND thị xã NB giải quyết bằng Quyết định 3023/QĐ-UBND ngày 30/11/2018 (gọi tắt là Quyết định 3023). Bà C yêu cầu hủy Công văn số 1186 ngày 15/11/2018 và Quyết định 3023 ngày 30/11/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã NB (nay là thành phố NB) vì cho rằng việc các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản nêu trên là không đúng quy định của pháp luật và thiệt hại đến quyền lợi hợp pháp của gia đình bà C.

[2.2] Xét nguồn gốc phần đất bà C yêu cầu UBND thị xã NB (nay là thành phố NB) bồi thường. Hội đồng xét xử xét thấy, căn cứ vào kết quả đo đạc của Trung tâm kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường, bản đồ địa chính 299 và bản đồ chính quy 205 thì phần đất này là đất hành lang ven Kinh cặp sông Thái H, trong ranh giới tổng thể khu đất Nhà nước giao cho Nông trường Mùa X quản lý, sử dụng làm đường đi từ bên ngoài vào Nông trường Mùa X, đã được giải phóng mặt bằng từ năm 2002. Năm 2012, Nhà nước mở rộng đường vào Nông trường Mùa Xvà không ban hành quyết định thu hồi đất. Trên phần đất này gia đình bà C có trồng cây cặp bờ Kinh Thái H. Bà Ccho rằng nội dung tờ xác nhận của ông Huỳnh Văn Ph(Phó giám đốc Nông trường Mùa X) năm 2002 cóghi: “Vào năm 1977, nông trường có đưa Xáng múc bờ bao nông trường, lúc này gia đình ông Tư S có nói trên bờ Kinh cũ là đất gốc của ông và có thỏa thuận cho gia đình ông Tư S trồng Bạch Đàn ăn chia với nông trường hai bên lề lộ”, nên khu đất này thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình bà C.

Tuy nhiên, nội dung tờ xác nhận này chỉ đủ cơ sở xác định khi gia đình ông Tư S trồng cây trên phần đất bờ kinh (bờ bao) này thì cũng phải ăn chia với Nông trường theo lẽ (người có đất và người có công). Phía bà C cũng thừa nhận khi trồng bạch đàn trên phần đất nêu trên thì gia đình bà C ăn chia sản phẩm bạch đàn với Nông trường. Giả sử phần đất bờ kinh này là của gia đình ông Tư Sthì ông Tư S sẽ không phải chia sản phẩm với Nông trường. Điều này càng khẳng định phần đất này không phải thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông Sương.

Mặt khác, qua đối chiếu với các sổ địa chính năm 1984, bản đồ qua các thời kỳ có căn cứ xác nhận ông Tư S là cha của bà C. Tuy nhiên không có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện ông Tư S được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất cặp bờ Kinh Thái H cũng là phần đất bà C đang yêu cầu bồi thường. Bản thân bà C cũng không cung cấp được bất kì các giấy tờ mua bán, chuyển nhượng đối với phần đất này hoặc những chứng cứ để xác định gia đình bà C đã có đăng ký kê khai đất tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sự kiện năm 2018, bà C khiếu nại, đã được UBND thị xã NB (nay là thành phố NB) phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ tiền cây trồng với số tiền 118.494.000 đồng không phải là căn cứ để xác định khu đất này thuộc là của gia đình bà C.

[3] Từ những phân tích nêu trên, có đủ căn cứ chứng minh phần đất mà Bà Võ Thị C yêu cầu bồi thường không thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình bà C, nên gia đình bà C không thuộc đối tượng được bồi thường về đất. Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà C là có căn cứ, đúng pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bà C. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4]Về án phí hành chính sơ thẩm và án phí hành chính phúc thẩm:Bà Võ Thị Cthuộc diện người cao tuổi và có đơn xin miễn nộp tiền án phí nên được miễn tiền án phí.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Căn cứ khoản 1 Điều 18 Luật Khiếu nại năm 2011;

Căn cứ Điều 75, Điều 100 Luật Đất đai năm 2013;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Bác toàn bộ kháng cáo củaBà Võ Thị C; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số11/2020/HC-ST ngày 09/6/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Hậu Giang.

2.Không chấp nhậnyêu cầu khởi kiện của Bà Võ Thị C về việc yêu cầu Tòa án hủy Công văn 1186/UBND-TCD ngày 15/11/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã NB (nay là thành phố NB), tỉnh Hậu Giang và Quyết định số 3023/QĐ-UBND ngày 30/11/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã NB (nay là thành phố NB), tỉnh Hậu Giang.

3. Về chi phí đo đạc thẩm định và vẽ lược đồ, người bị kiện đồng ý chịu khoản tiền này thay cho bà C. bà C được nhận lại số tiền 4.439.691 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố NB khi Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố NB nộp.

4. Về án phí hành chính sơ thẩm và án phí hành chính phúc thẩm: Bà Võ Thị Cđược miễn tiền án phí.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

720
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai (nguyên đơn không thuộc đối tượng được bồi thường về đất) số 791/2020/HC-PT

Số hiệu:791/2020/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về