Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 606/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 606/2023/HC-PT NGÀY 31/07/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 335/2023/TLPT-HC ngày 22/5/2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 24/2023/HC-ST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3785/2023/QĐPT- HC ngày 12 tháng 7 năm 2023 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1960; Địa chỉ: Số E tổ H, khu phố A, đường B, Phường A, thành phố V, tỉnh B (có mặt).

Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị N: Ông Tống Văn H, sinh năm 1961; Địa chỉ: A P, Phường G, thành phố V, tỉnh B (có mặt).

Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố V, tỉnh B; Địa chỉ: H L, Phường A, thành phố V, tỉnh B .

Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Vũ T - Chủ tịch UBND thành phố V (vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Thanh P và Ông Nguyễn Văn L - Viên chức Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố V (có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê H1, sinh năm 1962; Địa chỉ: E tổ H, khu phố A, đường B, thành phố V, tỉnh B (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp: Ông Tống Văn H (có căn cước nêu trên, có mặt).

2. Ông Lê Văn Đức A, sinh năm 1996; Địa chỉ: E tổ H, khu phố A, đường B, Phường A, thành phố V, tỉnh B (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị N là người khởi kiện.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bà Nguyễn Thị N là người khởi kiện và người đại diện hợp pháp của bà N trình bày:

Gia đình bà Nguyễn Thị N đang sử dụng diện tích 1.351,5m2 thuộc thửa đất số 183 và 187 (mới 24), tờ bản đồ số 44 (cũ 37) tại số E, đường B, Phường A, thành phố V, tỉnh B. Đất có nguồn gốc do ông Trần Văn K và bà Nguyễn Thị M khai phá, sử dụng trước năm 1975, đến năm 1985 thì sang lại cho bà Nguyễn Nhật Thu H2. Sau đó, bà H2 sang nhượng lại một phần cho gia đình bà N, theo đơn chuyển nhượng thành quả lao động, kết quả đầu tư có gắn liền việc sử dụng đất ngày 16/12/1989 và giấy xác nhận diện tích sang nhượng ngày 01/01/1990.

Sau này gia đình bà H2 và gia đình bà N xảy ra tranh chấp đất đai về diện tích. Tại Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai số: 3549/QĐ-UBND ngày 28 tháng 11 năm 2012 của Chủ tịch UBND thành phố V xác định diện tích đất bà H2 chuyển nhượng cho bà N là 1.351,5m2. Diện tích này không có tranh chấp, diện tích này cũng phù hợp với diện tích đất bà N kê khai đăng ký vào năm 1993 tại Phường A.

Tại Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai số 2214/QĐ-UBND ngày 18/9/2015 của Chủ tịch UBND tỉnh B. Hai quyết định Chủ tịch UBND thành phố V và Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định: Sau khi nhận chuyển nhượng, bà N sử dụng làm nhà ở trồng cây hoa màu đăng ký tại Phường A. Hai quyết định đã có hiệu lực pháp luật, gia đình bà đóng thuế, diện tích 1351,5m2 từ năm 1990 đến nay không có ai tranh chấp.

Sau khi nhận chuyển nhượng để bảo vệ tài sản, gia đình bà N làm hàng rào, bê tông trụ cột dầm (bê tông cốt thép đá 1x2 mác 200).

Tại Quyết định số 10250/QĐ-UBND ngày 05 tháng 8 năm 2022 của Ủy ban nhân dân thành phố V thu hồi 159,5m2.

Căn cứ vào điểm d Điều 5 Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của UBND tỉnh B. Hàng rào móng đá hộc 0,3x0,6m trên xây gạch cao 1,6m dày 100 trát 2 mặt. Gia đình bà N thấy không đúng với thực tế, lý do:

- Thực tế hàng rào gia đình bà N làm bê tông trụ cột dầm (Bê tông cốt thép đá 1x2 mác 200). Căn cứ điểm c Điều 5 Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của UBND tỉnh B thì:

+ Ủy ban thành phố V bồi thường đất cho gia đình bà N vị trí số 5 của đường B, Phường A, thành phố V. Vị trí số 5 cách mép đường B 300m trở lên, không có lối ra.

+ Bà N căn cứ tại điểm 1, Điều 4, đường hẻm, đường phố xóm đường trên 4m ngang, đất thu hồi đến mép đường B gần 100m, hiện tại thực tế.

+ Phần chưa được bồi thường là 32,5m2. Đây là đất nằm trong 1.351,5m2, sau khi chuyển nhượng. Thu hồi diện tích 159,5m2 không phải là 127m2.

Như vậy, Ủy ban nhân dân thành phố V áp dụng không đúng pháp luật về bồi thường đường rào và vị trí đất, thu hồi diện tích cho gia đình bà N.

Nay bà N yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Hủy Quyết định số 10271/QĐ-UBND ngày 05/8/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho ông (bà) Nguyễn Thị N, để thực hiện dự án: Đường Q tại Phường A, thành phố V.

- Buộc UBND thành phố V xác định lại vị trí đất của gia đình bà N thuộc vị trí 2 theo khoản 1 Điều 4 của Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh B.

- Buộc UBND thành phố V tính lại đơn giá hàng rào theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của UBND tỉnh B.

Người bị kiện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày:

1. Về việc xác định vị trí đất:

Theo văn bản số 352/TNMT-BT ngày 21/01/2022 về việc thẩm tra hồ sơ pháp lý cho 37 hộ gia đình, cá nhân thuộc dự án: Đường Q, Phường A, thành phố V, trong đó có hộ bà N có diện tích đất thu hồi 159,5m2 sau khi lồng ghép bản đồ, đối chiếu quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 4 của Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh B, thì vị trí đất thu hồi đất của Bà N được xác định là vị trí 5-đường B như sau:

b) Đối với thửa đất trong hẻm, ngõ xóm (có cạnh tiếp giáp với đường không quy định giá trong bảng giá đất):

Vị trí đất trong hẻm, ngõ xóm phụ thuộc vào các yếu tố sau:

- Chiều rộng hẻm, ngõ xóm;

- Chiều dài hẻm, ngõ xóm là khoảng cách từ thửa đất trong hẻm, ngõ xóm ra đường chính.

Cụ thể như sau: … - Vị trí 5: Áp dụng đối với thửa đất trong các trường hợp còn lại, không thuộc vị trí 1, 2, 3, 4 đã quy định trên đây.” 2. Về việc tính lại đơn giá hàng rào theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020:

Theo Biên bản kiểm đếm, thống kê nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất số 34 lập ngày 25/9/2020 của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố V ghi nhận trên phần đất thu hồi của bà Nguyễn Thị N có tường rào kết cấu: móng đá, đà kiềng, xây gạch và đã tô tường cao 2m.

Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 5 Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của UBND tỉnh B về việc ban hành qui định về giá nhà, giá vật kiến trúc, trên địa bàn tỉnh B quy định:

“Hàng rào móng đá hộc 0,3 x 0,6m trên xây gạch cao 2m dày 100 trát 2 mặt đơn giá 970.000 đ/md” Như vậy, việc UBND thành phố V ban hành quyết định hỗ trợ hàng rào móng đá hộc cao 2m tô trát 2 mặt, đơn giá 970.000 đồng/md là đúng quy định.

Đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lê H1 và ông Lê Văn Anh Đ trình bày: Ông Lê H1 và ông Lê Văn Anh Đ đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N và không có yêu cầu trong vụ án.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 24/2023/HC-ST ngày 15/3/2023 của Toà án nhân dân tỉnh B đã tuyên xử như sau:

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính;

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 4 của Quy định Bảng giá các loại đất định kỳ 05 năm (01/01/2020 - 31/12/2024) trên địa bàn tỉnh B ban hành kèm theo Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh B;

Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 5 của Quy định về giá nhà, giá vật kiến trúc trên địa bàn tỉnh B ban hành kèm theo Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh B;

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Không chấp nhận toàn bộ khởi kiện của bà Nguyễn Thị N yêu cầu:

- Hủy Quyết định số 10271/QĐ-UBND ngày 05/8/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố V về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho bà Nguyễn Thị N, địa chỉ số E B, Phường A, thành phố V, do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Đường Q tại Phường A, thành phố V.

- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V xác định lại vị trí đất của gia đình bà Nguyễn Thị N thuộc vị trí 2 theo Khoản 1 Điều 4 của Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B.

- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V tính lại đơn giá Hàng rào theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của UBND tỉnh B.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 22/3/2023, bà Nguyễn Thị N kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị N và ông Tống Văn H là người đại diện hợp pháp của bà N không thay đổi, bổ sung, không rút đơn khởi kiện; không thay đổi, bổ sung và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Người bị kiện vắng mặt tại phiên toà nên không thể hiện ý kiến. Các đương sự không tự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Trong phần tranh luận, các đương sự trình bày như sau:

Ông Tống Quang H3 và bà Nguyễn Thị N: Thành phần theo Biên bản kiểm đếm ngày 25/9/2020 dư 4 người là vi phạm quy định tại điểm a Điều 10 của Quyết định số 34/2015/QĐ-UBND ngày 25/8/2015 của UBND tỉnh B (theo quyết định này thì chỉ 01 người). Bà N có ký vào trang cuối nhưng không ký vào từng trang. Biên bản này ghi sai về kết cấu của hàng rào, thực tế là tường rào có dầm bê tông, cốt thép (ông H3 thừa nhận Toà án sơ thẩm thẩm định cũng là dầm bê tông cốt thép). Từ vị trí đất của bà N bị thu hồi đến đường B theo bản đồ chưa đến 90m. Đây là con đường bê tông không thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà N, cũng không thuộc giấy chứng nhận của ai. Do đó, phải xác định đất của bà N thuộc vị trí số 2, không thể là vị trí số 5. Quyết định 10250 thu hồi của bà N 159,5m2 trong đó có 32m2 của gia đình ông Nguyễn Văn T1 và ông Nguyễn Văn C. Như vậy, gia đình bà N chỉ bị thu hồi 127m2 và hiện nay bà N chưa nhận tiền bồi thường. Tại bản sơ đồ vị trí ngày 11/7/2011, mảnh trích đo ngày 07/02/2023 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DI 929708 thể hiện từ đất của bà N ra đường công cộng chưa đến 90m. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà N, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà N.

Ông Nguyễn Thanh P và ông Nguyễn Văn L:

Việc số người kiểm đếm cao hơn quy định là do công việc nhiều, điều này không có gì vi phạm. Biên bản kiểm đếm có mô tả kỹ tường rào của bà N là móng đá, đà kiềng đúng như ông H3 trình bày nên thuộc điểm d khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07. Theo bản đồ địa chính năm 1994 và bản đồ địa chính năm 2004 thì từ đất của bà N không thể hiện có lối ra đường B mà ra đường hẻm tự mở thuộc thửa 185 của ông Đặng Xuân T2 và thửa 190 của ông Nguyễn Văn T3 đăng ký. Hẻm tự mở này không thể hiện trên hồ sơ địa chính. UBND thành phố V đồng ý bồi thường cho bà N 127m2, số còn lại sẽ tách ra bồi thường cho người khác. Về hạng mục tường rào của bà N, UBND thành phố đã bồi thường 970.000 đồng/md là đã có lợi cho bà N. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà phát biểu ý kiến như sau:

1. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán chủ toạ phiên toà, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Xét thấy Thẩm phán chủ toạ phiên toà, các thành viên Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ và chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

2. Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà N làm trong hạn luật định, đúng hình thức. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận về mặt hình thức.

3. Về nội dung kháng cáo: Việc xác định phần đất của bà N bị thu hồi không có lối ra độc lập mà phải đi qua phần đất của người khác và thuộc vị trí số 5 là phù hợp với biên bản thẩm định của Toà án cấp sơ thẩm. Bà N được bồi thường hạng mục tường rào với giá 970.000 đồng/md là cao hơn với giá 833.000 đồng/md theo quy định là có lợi cho bà N. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà N và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Thị N làm trong hạn luật định. Bà Nữ sinh năm 1960 là người cao tuổi nên được miễn nộp tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm. Do đó, đơn kháng cáo của bà N đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện: Quyết định số 10271/QĐ-UBND của UBND thành phố V có nội dung phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho bà Nguyễn Thị N thuộc dự án Đường Q tại Phường A, thành phố V, được ban hành ngày 05/8/2022. Đây là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về đất đai. Ngày 20/10/2022, bà N khởi kiện yêu cầu huỷ quyết định nêu trên; buộc UBND thành phố V xác định lại vị trí đất của gia đình bà thuộc vị trí 2 theo khoản 1 Điều 4 của Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh B và buộc UBND thành phố V xác định lại đơn giá hàng rào theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của UBND tỉnh B. Do đó, Toà án nhân dân tỉnh B thụ lý, xét xử vụ kiện này là đúng quan hệ pháp luật, đúng thẩm quyền và còn trong thời hạn luật định, phù hợp với các quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

[3] Xét kháng cáo của bà N và Quyết định số 10271, nhận thấy:

[3.1] Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền ban hành: Bản án sơ thẩm xác định Quyết định số 10271 được ban hành đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 69 Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành.

[3.2] Về nội dung:

[3.2.1] Về biên bản kiểm đếm: Nhận thấy thành phần tham gia kiểm đếm gồm 04 người là cao hơn quy định tại điểm a Điều 10 của Quyết định số 34/2015/QĐ-UBND ngày 25/8/2015 của UBND tỉnh B và bà N không ký vào từng trang của biên bản là có thật. Tuy nhiên, việc này không ảnh hưởng, không làm thay đổi kết quả kiểm đếm và trên thực tế bà N cũng không khiếu nại về vấn đề này. Do đó, lời trình bày của bà N, ông H3 về vấn đề này không có căn cứ để chấp nhận.

[3.2.2] Về việc xác định vị trí đất bị thu hồi:

Căn cứ vào Bản đồ địa chính năm 1994, Bản đồ địa chính năm 2004 và các bản ảnh kèm theo Biên bản thẩm định tại chỗ ngày 09/01/2023 của Toà án cấp sơ thẩm thì có căn cứ để xác định:

- Đất của gia đình bà N đang sử dụng diện tích đất khoảng 1.351,5m2 thuộc thửa đất số 183 và 187 (mới 24), tờ bản đồ số 44 (cũ 37) tại Phường A, thành phố V, tỉnh B.

- Để đi ra đường B thì gia đình bà N phải đi ra đường hẻm tự mở thuộc thửa 185 của ông Đặng Xuân T2 và thửa 190 của ông Nguyễn Văn T3 đăng ký. Hẻm tự mở này không thể hiện trên hồ sơ địa chính.

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 4 của Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh B thì “Trong trường hợp thửa đất không có lối ra hợp pháp đến đường chính thì vị trí đất được xác định là vị trí 5 của đường chính gần nhất (có khoảng cách ngắn nhất tính từ tâm thửa đất đến đường đó), nhưng có mức giá không cao hơn mức giá vị trí 5 thấp nhất tính theo các thửa đất có lối ra hợp pháp liền kề trực tiếp với thửa đất này”. Do đó, UBND thành phố V xác định đất của bà N bị thu hồi thuộc vị trí số 5 là có căn cứ. Việc bà N yêu cầu huỷ Quyết định số 10271 và buộc UBND thành phố V xác định vị trí đất của gia đình bà N thuộc vị trí 2 theo khoản 1 Điều 4 của Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của UBND tỉnh B là không có căn cứ để chấp nhận.

[3.2.3] Việc tính lại giá tường rào:

Theo Biên bản kiểm đếm thì tường rào của bà N có kết cấu móng đá, đà kiềng, xây gạch, đã tô 2 mặt.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 thì “Hàng rào móng đá hộc 0,3 x 0,6ml trên xây gạch cao 1,6m dày 100 trát 2 mặt đơn giá 833.000 đồng/md”.

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của UBND tỉnh B, thì “Hàng rào móng đá hộc 0,3 x 0,6m trên xây gạch cao 2m dày 100 trát 2 mặt đơn giá 970.000 đồng/md”.

Như vậy, UBND thành phố V áp dụng điểm d khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND nêu trên bồi thường cho bà N với giá 970.000 đồng/md là đã có lợi và đảm bảo quyền lợi cho bà N.

[3.2.4] Về diện tích bồi thường: Tại phiên toà phúc thẩm, bà N, ông H3 và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị kiện đều xác định: Quyết định số 10250 thu hồi của bà N 159,5m2, tuy nhiên trong đó có 32,5m2 của gia đình ông Nguyễn Văn T1 và ông Nguyễn Văn C. Như vậy, gia đình bà N chỉ bị thu hồi 127m2. Bà N đồng ý với diện tích này. Do đó, Toà án cấp phúc thẩm ghi nhận nội dung này.

[4] Từ những phân tích nêu trên, nhận thấy bản án sơ thẩm tuyên xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N là có căn cứ. Tại phiên toà phúc thẩm, bà N và người đại diện hợp pháp là ông H3 không cung cấp được chứng cứ nào mới so với cấp sơ thẩm, do đó kháng cáo của bà N là không có căn cứ để chấp nhận. Cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà.

[5] Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Nữ s năm 1960 là người cao tuổi nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015,

Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị N. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 24/2022/HC-ST ngày 15/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, khoản 2 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính;

Căn cứ vào Điều 69 Luật Đất đai năm 2013;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N, về việc yêu cầu:

- Hủy Quyết định số 10271/QĐ-UBND ngày 05/8/2022 của Ủy ban nhân dân thành phố V, về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư bà Nguyễn Thị N (địa chỉ: E B, Phường A, thành phố V), do Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án: Đường Q tại Phường A, thành phố V.

- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V xác định lại vị trí đất của gia đình bà Nguyễn Thị N thuộc vị trí 2 theo Khoản 1 Điều 4 của Quyết định số 38/2019/QĐ-UBND ngày 20/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B.

- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố V tính lại đơn giá Hàng rào theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 07/2020/QĐ-UBND ngày 10/4/2020 của UBND tỉnh B.

2. Về án phí hành chính phúc thẩm: Miễn án phí hành chính phúc thẩm cho bà Nguyễn Thị N.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai số 606/2023/HC-PT

Số hiệu:606/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:31/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về