Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai thuộc trường hợp bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất số 57/2024/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 57/2024/HC-PT NGÀY 23/01/2024 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI THUỘC TRƯỜNG HỢP BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI THU HỒI ĐẤT

Ngày 23 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở; Tòa án nhân dân cấp cao tại Th phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 734/2023/TLPT-HC ngày 11/10/2023 về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đất đai thuộc trường hợp về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 05/2023/HC-ST ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2023/QĐ-PT ngày 25 tháng 12 năm 2023 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Huỳnh Thị M, sinh năm 1974; nơi cư trú: Số nhà 14, hẻm 1, đường P, tổ 15, khu phố 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thị M: Anh Trần Hoàng Nguyên, sinh năm 1998;

Ông Đoàn Anh D, sinh năm 1970 nơi cư trú: 192, tổ 3, ấp Bến Cừ, xã Đ, huyện C, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Người bị kiện:

1/ Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh (viết tắt là UBND).

Trụ sở: Số 99 N, khu khố 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

2/ Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Th - Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Nguyễn Ngọc Tr – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:

+ Ông Nguyễn Hoàng A - Giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất huyện T, tỉnh Tây Ninh; xin xét xử vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Huy G – Phó trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Đỗ Th C, sinh năm 1971; nơi cư trú: Số nhà 14, hẻm 1, đường P, tổ 15, khu phố 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt,

- Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Huỳnh Thị M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người khởi kiện và người đại diện theo ủy quyền anh Nguyên trình bày:

Bà Huỳnh Thị M là chủ sử dụng phần đất thửa số 149,167, thuộc tờ bản đồ số 02, đất tọa lạc tại thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Ngày 30-12-2020, Uỷ ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 4475/QĐ-UBND ngày 30/12/2020 của Ủy ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện T, tỉnh Tây Ninh về việc thu hồi diện tích 242,1 m2 đất của bà Huỳnh Thị M để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T. Dự kiến thu hồi của bà Huỳnh Thị M diện tích 259,2 m2 đất thuộc một phần thửa đất 149, 167 thuộc tờ bản đồ số 02 của bà. Sau đó, bà nhận được phương án bồi thường của trung tâm phát triển quỹ đất huyện T ngày 15-12-2021 về việc thu hồi 242,1 m2. Ngày 29-12-2021, bà Huỳnh Thị M nhận được quyết định số 7713/QĐ-UBND của UBND huyện T về việc chi trả tiền bồi thường cho bà Huỳnh Thị M số tiền 441.687.000 đồng và bà Huỳnh Thị M nhận đủ tiền. Bà nhận được phần đất tái định cư.

Nay bà Huỳnh Thị M yêu cầu hủy Quyết định số 4475/QĐ-UBND ngày 30/12/2020, của Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Tây Ninh về việc thu hồi 242,1 m2 đất của bà Huỳnh Thị M để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T, vì theo Quyết định thì diện tích thu hồi là 242,1 m2 đất của bà Huỳnh Thị M nằm trong diện tích đất 288 m2 của bà Huỳnh Thị M đang trực tiếp quản lý sử dụng trên thực tế. Phần đất bà Huỳnh Thị M quản lý sử dụng chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt Giấy CNQSDĐ). Tuy nhiên, UBND huyện T đã thu hồi hết diện tích bà Huỳnh Thị M thực tế sử dụng là 288 m2 và bà Huỳnh Thị M yêu cầu hủy Công văn số 2237/UBND-TTPTQĐ ngày 30/12/2022, của Chủ tịch UBND huyện T về việc trả lời đơn kiến nghị của bà Huỳnh Thị M. Bà Huỳnh Thị M yêu cầu bồi thường giá trị nhà ở, ước tính trị giá 80.000.000 đồng; trả lại diện tích đã thu hồi vượt mức 128m2 ước tính giá trị là 768.000.000 đồng; tính lại giá bồi thường diện tích đất đã thu hồi 160m2 ước tính giá trị 960.000.000 đồng cho bà Huỳnh Thị M.

Bà Huỳnh Thị M cho rằng thẩm quyền ban hành Công văn số 2237/UBND- TTPTQĐ ngày 30/12/2022 của Chủ tịch UBND huyện T trả lời bà Huỳnh Thị M là không đúng thẩm quyền.

Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện - Ông Nguyễn Ngọc Tr trình bày: Căn cứ để Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 4475/QĐ- UBND ngày 30/12/2020 về việc thu hồi 242,1 m2 đất của bà Huỳnh Thị M để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T:

+ Căn cứ Khoản 3 Điều 61 Luật Đất đai năm 2013.

+ Nghị quyết số 18/2019/NQ-HĐND ngày 06/12/2019, của Hội đồng nhân dân tỉnh Tây Ninh về thu hồi đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2020.

+ Nghị quyết số 06/2020/NQ-HĐND ngày 31/7/2020, của dân tỉnh Tây Ninh về thay đổi quy mô, địa điểm và số lượng của dự án công trình trong cùng một loại đất trong điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ cuối (2016-2020) tỉnh Tây Ninh và chấp thuận bổ sung danh mục dự án cần thu hồi đất năm 2020 trên địa bàn tỉnh Tây Ninh (bổ sung thêm).

+ Quyết định số 792/QĐ-UBND ngày 17/4/2020, của UBND tỉnh Tây Ninh về việc phê duyệt Kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của huyện T.

- Quyết định số 1528/QĐ-UBND ngày 17/7/2020, của UBND tỉnh Tây Ninh về việc phê duyệt chủ trương đầu tư dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T.

+ Quyết định số 1641/QĐ-UBND ngày 31/7/2020, của UBND tỉnh Tây Ninh về việc phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Bờ kè chống sạt lở suối Cần Ðăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T;

+ Quyết định số 2867/QĐ-UBND ngày 23 tháng 11 năm 2020, của UBND tỉnh Tây Ninh về việc phê duyệt bổ sung kế hoạch sử dụng đất năm 2020 của huyện T;

+ Dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh, là dự án xây dựng công trình phục vụ sinh hoạt chung của cộng đồng dân cư. Phần đất diện tích 242,1 m2 đất trồng cây lâu năm (CLN) của bà Huỳnh Thị M, nằm trong dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

+ Căn cứ Quyết định số 4461/QĐ-UBND ngày 30 tháng 12 năm 2020, của UBND huyện T về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh.

Ngoài ra, bà Huỳnh Thị M đã ký thủ tục nhận tiền bồi thường đầy đủ theo phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T đã được UBND huyện phê duyệt. Do đó, UBND huyện T kiến nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh giữ nguyên Quyết định số 4475/QĐ-UBND ngày 30/12/2020 về việc thu hồi diện tích 242,1m2 đất của bà Huỳnh Thị M để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T.

Ý kiến về Công văn số 2273/UBND-TTPTQĐ ngày 30/12/2023, của Chủ tịch UBND huyện T về việc trả lời đơn của bà Huỳnh Thị M:

Căn cứ vào Điều 6, Thông tư số 05/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021, của Thanh tra Chính phủ về Quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh. Qua xem xét đơn của bà Huỳnh Thị M, UBND huyện T xác định nội dung ghi trong đơn không phải là nội dung khiếu nại mà đơn có nội dung kiến nghị. UBND huyện nhận thấy việc ban hành Công văn số 2273/UBND- TTPTQĐ ngày 30/12/2022 của Chủ tịch UBND huyện T về việc trả lời đơn của bà Huỳnh Thị M là đúng quy định của pháp luật.

Do đó, UBND huyện T kiến nghị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh giữ nguyên Công văn số 2273/UBND-TTPTQĐ ngày 30/12/2022, của Chủ tịch UBND huyện T. UBND huyện T khẳng định 02 nội dung trong đơn khởi kiện của bà Huỳnh Thị M là không có cơ sở pháp lý. UBND huyện T kiến nghị Tòa án nhân dân tỉnh bác đơn khởi kiện của bà Huỳnh Thị M.

Tại bản án hành chính sơ thẩm số:05/2023/HS-CT ngày 28/6/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định:

Căn cứ vào các Điều 30, 32, 115, 116, khoản 1 Điều 157, điểm a khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Bác đơn khởi kiện của bà Huỳnh Thị M yêu cầu: Hủy Quyết định số 4475/QĐ- UBND ngày 30/12/2020, của UBND huyện T về việc thu hồi diện tích 242,1 m2 đất của bà Huỳnh Thị M để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở Suối Cần Đăng đoạn chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T và yêu cầu hủy Công văn số 2237/UBND- TTPTQĐ ngày 30/12/2022 của Chủ tịch UBND huyện T, về việc trả lời đơn kiến nghị của bà Huỳnh Thị M.

Ngoài ra Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luệt định.

Không đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm, ngày 11/7/2023 Huỳnh Thị M có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm, đề nghị sửa Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị M.

- Tại phiên tòa phúc thẩm:

Đại diện theo uỷ quyền của bà Huỳnh Thị M giữ nguyên nội dung yêu cầu kháng cáo nhhư nêu trên, việc Uỷ ban nhân dân huyện thu hồi đất là không đunhg1 trình tự, thủ tục, bà Huỳnh Thị M không được nhận thông báo thu hồi đất và Uỷ ban huyện ban hành công văn 2237 là không đúng thẩm quyền.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án đến thời điểm xét xử phúc thẩm, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện và giữ nguyên Bản án sơ thẩm (có bài phát biểu kèm theo)

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về đối tượng khởi kiện, về thẩm quyền xét xử, về thời hiệu khởi kiện như nhận định của Tòa án cấp sơ thẩm là đúng quy định pháp Luật Tố tụng hành chính.

[2] Xét kháng cáo của người khởi kiện đề nghị sửa án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện; thấy rằng:

[3] Để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng đoạn chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Ngày 30/12/2020, UBND huyện T ban hành Quyết định số 4475/QĐ-UBND về việc thu hồi diện tích 242,1 m2 đất của bà Huỳnh Thị M. Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền thu hồi đất đảm bảo đúng quy định tại các Điều 62, 63, 66, 67 và 69 Luật đất đai.

[4] Tại trích lục bản đồ địa chính ngày 04/12/2020, thể hiện diện tích bà Huỳnh Thị M sử dụng là 242,1 m2, bà Huỳnh Thị M cho rằng diện tích sử dụng thực tế là 288m2 là không đúng vì theo biên bản kiểm tra hiện trạng ngày 20/8/2020, thể hiện: hiện trạng phần đất thực tế bà Huỳnh Thị M sử dụng diện tích 259,2 m2; hiện nay hiện trạng đất đã bị thay đổi ranh giới giữa các thửa đất không còn. Phần diện tích đất này của bà Huỳnh Thị M chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, theo biên bản kiểm tra hiện trạng ngày 20/8/2020 thể hiện trên đất có nhà ở và trồng cây lâu năm là Tràm, Bạch đàn và theo đơn xác nhận hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp của bà Huỳnh Thị M được UBND thị trấn Tân Biên xac nhận toàn bộ diện tích 242,1m sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, căn cứ báo cáo số 418/BC-TTPTQĐ ngày 15/10/2021 của Trung tâm phát triển quỹ đất về xác định nguồn gốc đất sử dụng của 08 hộ dân Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng đoạn chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T (trong đó hộ bà Huỳnh Thị M) đã xác định toàn bộ diện tích đất bị thu hồi của 08 hộ do các hộ tự xây dựng nhà, chưa thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất làđất nông nghiệp và được bồi thường theo khoản 2 Điều 77 luật đất đai năm 2013 là đúng.

[5] Diện tích đất 242,1m2 của bà Huỳnh Thị M bị thu hồi có vị trí tiếp giáp đường số 7 cặp trung tâm y tế đường bê tông có độ rộng từ 3,5m đến dưới 6m đoạn từ đường P đến ngã ba từ nhất là thuộc vị trí 2 xã loại 1 (thị trấn Tân Biên). Theo quyết định số 3216/QĐ-UBND ngày 29/12/2020 của UBND tỉnh Tây Ninh phê duyệt giá đất cụ thể để bồi thường về đất thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở suối Cần Đăng đoạn chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T thì đất trồng cây lâu năm vị trí 2, xã loại 1 (thị trấn Tân Biên) có giá 1.727.000 đ/m2. Do đó Ủy ban nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 7713/QĐ-UBND ngày 21/12/2021 điều chỉnh QĐ số 1370 tăng số tiền bồi thường hỗ trợ cho bà Huỳnh Thị M thêm số tiền 441.687.000 đồng là đảm bảo quyền lợi cho bà Huỳnh Thị M.

[6] Đối với tài sản trên đất là căn nhà cấp 4: Theo biên bản xem xét thẩm định chổ thể hiện căn nhà xây năm 2003 chưa tô, nền xi măng; theo phụ lục 04 phương án bồi thường hỗ trợ do Trung tâm phát triển quỹ đất lập thể hiện nhà ở được xây dựng năm 2006 hiện nay cũng đã tháo dỡ di dời. Bà Huỳnh Thị M không thuộc đối tượng bồi thường tài sản là nhà ở do nhà được xây dựng trên đất nông nghiệp, không đủ điều kiện để được bồi thường theo quy định tại khoản 5 Điều 23 Nghị quyết số 17/2015/NQ-UBND ngày 02/4/2015, của UBND tỉnh Tây Ninh. Do đó, UBND huyện không bồi thường về căn nhà này là đúng.

[7] Với các tài liệu, chứng cứ nêu trên Toà án cấp sơ thẩm xét xử bác yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị M là đúng pháp luật. Tại phiên toà phúc thẩm bà Huỳnh Thị M không cung cấp được chứng cứ gì mới có thể thay đổi được Quyết định của Bản án sơ thẩm nên Hội đồng xét xử phúc thẩm bác kháng cáo của bà Huỳnh Thị M và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm đề nghị bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên Bản án sơ thẩm là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người khởi kiện phải chịu tiền án phí hành chính phúc thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 203; Điều 220; khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng Hành chính.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ các Điều 62, 63, 66, 67, 77 Luật Đất đai năm 2013.

Căn cứ Luật khiếu nại năm 2011.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Huỳnh Thị M.

Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 05/2023/HC-ST ngày 28/6/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Tuyên xử:

1. Bác đơn khởi kiện của bà Huỳnh Thị M yêu cầu: Hủy Quyết định số 4475/QĐ-UBND ngày 30/12/2020, của UBND huyện T về việc thu hồi diện tích 242,1 m2 đất của bà Huỳnh Thị M để thực hiện dự án Bờ kè chống sạt lở Suối Cần Đăng đoạn chảy qua trung tâm thị trấn T, huyện T và yêu cầu hủy Công văn số 2237/UBND-TTPTQĐ ngày 30/12/2022 của Chủ tịch UBND huyện T, về việc trả lời đơn kiến nghị của bà Huỳnh Thị M.

2. Về án phí: Bà Huỳnh Thị M phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hành chính sơ thẩm nhưng được khấu trừ từ tiền tạm ứng án phí mà bà Huỳnh Thị M đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0016539 ngày 24-02-2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh.

3. Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị M phải chịu 300.000 đồng, khấu trừ số tiền 300.000đ bà Huỳnh Thị M đã nộp tạm ứng theo biên lai số 0016722 ngày 12/7/2023 tại Cục thi hành hành án dân sự tỉnh Tây Ninh vào phần án phí phải chịu, (đã nộp xong) Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai thuộc trường hợp bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất số 57/2024/HC-PT

Số hiệu:57/2024/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 23/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về