Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai số 251/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 251/2023/HC-PT NGÀY 19/04/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI

Ngày 19 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số: 931/2022/TLPT-HC ngày 26 tháng 12 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai.”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 1450/2022/HC-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 115/2023/QĐ-PT ngày 16 tháng 3 năm 2023, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Trịnh Văn M Địa chỉ: đường số 16, khu phố V, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện:

1/. Bà Dương Thị V (có mặt)

2/. Ông Nguyễn Đăng Ch (có mặt)

Cùng địa chỉ: đường số 45 khu phố 2, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) Địa chỉ: đường Tr, phường Th, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ủy ban nhân dân phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) Địa chỉ: đường Tr1, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Trịnh Văn M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, biên bản đối thoại và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày:

Gia đình ông M (bao gồm ông M và mẹ là Phạm Thị Đ) khai phá sử dụng phần đất ở phường L, quận T (nay là Thành phố T) để cất nhà ở từ trước năm 1975. Gia đình ông có hộ khẩu từ năm 1977 tại vị trí này. Năm 1997, bà Đ bán nhà đang sử dụng cho ông Cao Văn B và cất một căn nhà khác trên đất trống kế bên (nay thuộc thửa 137, tờ bản đồ số 39 tài liệu 2003). Khi cất nhà năm 1997, Chính quyền địa phương có xử phạt hành chính về hành vi xây dựng trái phép, biên bản không xác định có hành vi lấn chiếm đất. Sau khi nộp phạt, gia đình bà Đ tiếp tục sử dụng nhà đến nay.

Khoảng năm 2009, phía Ủy ban nhân dân phường L nói với bà Đ là phần đất có nhà của bà là đất công, do Ủy ban nhân dân phường L quản lý và đề nghị gia đình bà di dời trả lại đất cho Phường. Bà Đ không hiểu biết nên đã đồng ý di dời nhưng có đề nghị chính quyền cho thời gian để tạo chỗ ở mới vì gia đình bà thuộc diện khó khăn.

Bà Đ mất năm 2020 thì ông M quản lý sử dụng nhà đến nay.

Năm 2020, Ủy ban nhân dân phường L tiếp tục yêu cầu ông M di dời, ông M không đồng ý. Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L có cuộc tiếp công dân và sau đó Ủy ban nhân dân phường L ban hành Thông báo số 69/TB-UBND ngày 12/5/2020, nội dung xác định phần đất thuộc thửa 137 tờ bản đồ số 39 tài liệu 2003 là đất công, yêu cầu gia đình ông M di dời và không đồng ý cấp đất khác cho ông M để ổn định chỗ ở.

Ông M kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9 xem xét lại Thông báo số 69/TB-UBND ngày 12/5/2020. Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9 có Văn bản số 2898/UBND-TNMT ngày 24/8/2020 về việc giải quyết kiến nghị xem xét lại Thông báo số 69/TB-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9, trong đó kết luận là “không có cơ sở xem xét kiến nghị của ông M”.

Ông M cho rằng: gia đình ông đã cất nhà ở từ năm 1997, có đóng thuế nhà đất, không bị tranh chấp, Ủy ban nhân dân Quận 9 không có cơ sở chứng minh là đất công nên theo khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai năm 2013Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai 2013 thì gia đình bà Đ, ông M đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Do đó, Ủy ban nhân dân phường L yêu cầu ông di dời để trả đất là không có cơ sở. Ông M khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy văn bản số 2898/UBND-TNMT ngày 24/8/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9 (nay là Thành phố T) về việc giải quyết kiến nghị xem xét lại Thông báo số 69/TB-UBND ngày 12/5/2020 của Ủy ban nhân dân phường L.

Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T trình bày ý kiến tại Văn bản số 4469/UBND-TNMT ngày 07/8/2021, cụ thể:

Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T đề nghị giữ nguyên nội dung Văn bản số 2898/LTBND-TNMT ngày 24/8/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9 (nay là thành phố T) về việc giải quyết kiến nghị xem xét lại Thông báo số 69/TB-UBND ngày 12/5/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L, Quận 9.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân phường L, thành phố T trình bày ý kiến tại Văn bản số 494/UBND ngày 24/8/2022 và Văn bản số 245/UBND ngày 16/5/2022, cụ thể:

Phần đất có nhà của bà Đ (nay ông M quản lý, sử dụng) có diện tích 90,0m2 tại thửa 137 tờ bản đồ số 39 tài liệu 2003, thuộc đất công. Tài liệu kê khai qua các thời kỳ như sau: Tài liệu 299/TTg: thuộc một phần thửa số 02 tờ bản đồ số 02, Ủy ban nhân dân phường L kê khai; Tài liệu 02/CT-UB: thuộc một phần thửa 352, tờ bản đồ số 06, Ủy ban nhân dân phường L kê khai, Tài liệu 2003: thửa 137 tờ bản đồ số 39, tài liệu dã ngoại, do bà Phạm Thị Đ kê khai. Theo quy hoạch nằm trong khuôn viên Câu lạc bộ O tại khu phố V, phường L.

Năm 1997, hộ bà Đ lấn chiếm đất xây nhà nhưng do thời điểm đó, hộ bà Đ thuộc diện gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên Ủy ban phường không tiến hành cưỡng chế ngay mà vẫn để hộ bà Đ tiếp tục sử dụng đất để ở. Từ năm 2009, thực hiện việc quản lý đất đai, Ủy ban nhân dân phường L đã có các buổi làm việc để yêu cầu bà Đ di dời, cụ thể: biên bản làm việc ngày 08/10/2009, Thông báo số 107/TB-UBND ngày 27/10/2009 làm việc yêu cầu bà Đ giao trả mặt bằng, biên bản làm việc ngày 29/7/2010, Thông báo số 24/TB- UBND ngày 15/3/2011 làm việc yêu cầu bà Đ giao trả mặt bằng đất công, biên bản làm việc ngày 23/4/2011. Tại các buổi làm việc này, gia đình bà Đ đều xác định nhà của bà cất trên đất công của phường nhưng do gia đình khó khăn nên xin thêm thời gian ổn định chỗ ở mới có thể di dời.

Ngày 25/4/2014, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 2042/QĐ-UBND về việc công nhận quyền sử dụng đất cho các đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân Quận 9 đang quản lý, sử dụng đất trên địa bàn Quận 9 thì thửa 137 tờ bản đồ số 39 tài liệu 2003, diện tích 90,4m2 được công nhận quyền sử dụng đất cho Ủy ban nhân dân phường L. Hiện nay, Ủy ban nhân dân phường L đang hoàn tất thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

Ủy ban nhân dân phường L tiếp tục làm việc với ông M về việc yêu cầu di dời để giao trả đất, cụ thể: Biên bản làm việc ngày 20/5/2019, biên bản làm việc ngày 06/3/2020, biên bản làm việc ngày 07/5/2021. Các buổi làm việc này, ông M yêu cầu Ủy ban nhân dân phường L tạo nơi ở mới cho gia đình ông và xin thêm thời gian ổn định chỗ ở mới. Ủy ban nhân dân phường L ban hành Thông báo số 69/TB-UBND ngày 12/5/2020 về việc thu hồi mặt bằng liên quan đất do Nhà nước trực tiếp quản lý tại thửa 137 tờ bản đồ số 39 tài liệu 2003 là đúng quy định pháp luật.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 1450/2022/HC-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ Điều 32, Điều 116, khoản 1 Điều 158, Điều 193, Điều 194, Điều 206 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bác yêu cầu khởi kiện của ông Trịnh Văn M về việc hủy Văn bản số 2898/UBND-TNMT ngày 24/8/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9 về việc giải quyết kiến nghị xem xét lại Thông báo số 69/TB-UBND ngày 12/5/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L, Quận 9.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 14/9/2022, người khởi kiện ông Trịnh Văn M kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông M.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Hội đồng xét xử phúc thẩm và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.

- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Đơn kháng cáo của ông Trịnh Văn M làm trong thời hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bị kiện Chủ tịch UBND thành phố T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chủ tịch UBND phường L được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật tố tụng hành chính, tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự nêu trên.

[2] Về nội dung:

Theo Thông báo số 69/TB-UBND ngày 12/5/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L, Quận 9 thì phần diện tích đất thửa 137, tờ bản đồ số 39, tài liệu 2003 do Nhà nước trực tiếp quản lý, UBND phường yêu cầu bà Phạm Thị Đ (mẹ ông M) di dời để trả lại đất cho UBND phường quản lý và lập kế hoạch sử dụng đất theo quy định. Ông Trịnh Văn M không đồng ý di dời để trả lại thửa đất số 137 với lý do diện tích đất này gia đình ông đã cất nhà ở từ năm 1997, có đóng thuế và không có tranh chấp, đủ điều kiện để được công nhận quyền sử dụng đất.

Xét thấy, phần đất có nhà của bà Đ (nay ông M quản lý, sử dụng) có diện tích 90,0m2 tại thửa 137 tờ bản đồ số 39 theo Tài liệu 299/TTg thuộc một phần thửa số 02 tờ bản đồ số 02 do Ủy ban nhân dân phường L kê khai; theo Tài liệu 02/CT-UB thuộc một phần thửa 352, tờ bản đồ số 06 do Ủy ban nhân dân phường L kê khai; theo Tài liệu 2003 thửa 137 tờ bản đồ số 39, tài liệu dã ngoại, do bà Phạm Thị Đ kê khai. Theo quy hoạch phần diện tích đất này nằm trong khuôn viên Câu lạc bộ O tại khu phố V, phường L.

Hộ bà Đ xây nhà trên đất từ năm 1997 nhưng đã bị chính quyền địa phương lập biên bản vi phạm hành chính. Tuy nhiên do thời điểm đó, hộ bà Đ thuộc diện gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên UBND phường L không tiến hành cưỡng chế mà vẫn để hộ bà Đ tiếp tục sử dụng đất để ở. Sau đó, UBND phường L đã nhiều lần yêu cầu bà Đ di dời để trả lại đất, thể hiện tại biên bản làm việc ngày 08/10/2009, Thông báo số 107/TB-UBND ngày 27/10/2009, biên bản làm việc ngày 29/7/2010, Thông báo số 24/TB-UBND ngày 15/3/2011, biên bản làm việc ngày 23/4/2011. Tại các buổi làm việc này, gia đình bà Đ đều xác định nhà của bà cất trên đất công của phường nhưng do gia đình khó khăn nên xin thêm thời gian ổn định chỗ ở mới có thể di dời.

Ngày 25/4/2014, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định số 2042/QĐ-UBND về việc công nhận quyền sử dụng đất cho các đơn vị trực thuộc Ủy ban nhân dân Quận 9 đang quản lý, sử dụng đất trên địa bàn Quận 9 thì thửa 137 tờ bản đồ số 39 tài liệu 2003, diện tích 90,4m2 được công nhận quyền sử dụng đất cho Ủy ban nhân dân phường L.

Do phần diện tích đất hộ ông M sử dụng thuộc đất công nên UBND phường L yêu cầu hộ ông M phải di dời để trả lại đất cho Nhà nước là đúng quy định pháp luật. Chủ tịch UBND Quận 9 ban hành Văn bản số 2898/UBND- TNMT giải quyết không xem xét lại kiến nghị của ông Trịnh Văn M đối với Thông báo số 69/TB-UBND là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Kháng cáo của ông Trịnh Văn M không có cơ sở chấp nhận, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Trịnh Văn M phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Trịnh Văn M. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 1450/2022/HC-ST ngày 30/8/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tuyên xử:

Bác yêu cầu khởi kiện ông Trịnh Văn M về việc hủy Văn bản số 2898/UBND-TNMT ngày 24/8/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 9 về việc giải quyết kiến nghị xem xét lại Thông báo số 69/TB-UBND ngày 12/5/2020 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường L, Quận 9.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trịnh Văn M phải chịu 300.000 đồng;

được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0003116 ngày 03/10/2022 của Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai số 251/2023/HC-PT

Số hiệu:251/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:19/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về