Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng số 45/2021/HC-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 45/2021/HC-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG

Ngày 18 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 73/2020/TLST-HC ngày 19 tháng 10 năm 2020 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST-HC ngày 02 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoàn phiên tòa số 37/2021/QĐST-HC ngày 20 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Ông Lê Hữu C, sinh năm 195X; địa chỉ: Tổ Y phường Đ, quận H, Hải Phòng; vắng mặt Do ông Nguyễn Thanh T và ông Nguyễn Ngọc C- Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH MTV I đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 07/9/2019); ông C vắng mặt, ông T có mặt.

- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân quận H, thành phố Hải Phòng; địa chỉ: Đường L, quận H, TP. Hải Phòng;

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn T, Phó Chủ tịch UBND quận H, thành phố Hải Phòng (theo văn bản ủy quyền số 5256/QĐ-CT ngày 31/12/2020 của Chủ tịch UBND quận H, thành phố Hải Phòng); vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Xuân D - Phó Giám đốc Trung tâm phát triển quĩ đất quận H và bà Dương Thị Nguyệt A - Phó trưởng phòng Tài nguyên - Môi trường quận H; đều vắng mặt - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Đỗ Thị T; địa chỉ: Tổ Y phường Đ, quận H, Hải Phòng; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện, lời khai của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

* Người khởi kiện trình bày:

Gia đình ông Lê Hữu C là chủ sử dụng 60m2 đất, số thửa Z, tại Khu tái định cư Lô 13 (Dự án xây dựng Khu đô thị Ngã 5 - Sân bay Cát Bi), phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng, theo Giấy CNQSD đất số BĐ 123785 do UBND quận H cấp ngày 24/01/2011, đứng tên ông Lê Hữu C và bà Đỗ Thị T. Ngày 07/9/2016, UBND quận H ban hành Quyết định số 2923/QĐ-UBND, thu hồi 60m2 đất nói trên và Quyết định số 2900/QĐ-UBND (bổ sung bằng Quyết định 3264/QĐ-UBND ngày 17/10/2016)về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản trên đất khi thu hồi đất thực hiện dự án phát triển giao thông đô thị thành phố Hải Phòng (hạng mục xây dựng tuyến đường Bắc Sơn –Nam Hải).

Người khởi kiện ủng hộ chủ trương thu hồi đất để thực hiện dự án của Nhà nước và ngày 26/10/2016 đã nhận tiền bồi thường về đất là 396.000.000đ, tiền bồi thường về vật kiến trúc là 1.207.475.030đ, các khoản hỗ trợ khác là 44.000.000đ (giá đất theo Quyết định số 1106/QĐ-UBND ngày 22/6/2016 của UBND thành phố Hải Phòng). Sau khi nhận tiền gia đình người khởi kiện đã chuyển đi ra nhận đất ở khu tái định cư gần đó và bàn giao mặt bằng cho UBND quận H.

Tuy nhiên, sau khi chuyển đi người khởi kiện mới được biết một số hộ dân ở gần đó không chấp nhận chuyển đi, bị cưỡng chế thì lại được bồi thường về đất với mức giá 21.600.000 đ/m2. Người khởi kiện cho rằng giá đất được qui định tại Quyết định số 1106/QĐ-UBND chỉ áp dụng cho phường Đ, trong khi đất của gia đình ông là ở phường Đ1; mức giá 6.600.000 đ/m2 cũng là quá thấp, thời điểm đó giá đất giao dịch tại thị trường cũng trên 20 triệu đồng/m2. UBND quận H cũng xác định sai vị trí đất, lẽ ra phải xác định đất của các hộ dân Lô 13 thuộc tuyến 2 của đường L, để áp giá đất thấp nhất là 8.640.000/m2 (theo qui định tại Quyết định số 2970/QĐ-UBND ngày 25/12/2014) mới phù hợp. Các hộ dân tại khu tái định cư Lô 13 đã khiếu nại đến UBND quận H nhiều lần để đòi hỏi công bằng, nhưng không được giải quyết. Sau nhiều lần khiếu nại (kiến nghị) thì ngày 23/7/2019, UBND quận H ban hành C văn số 1485/UBND-TTPTQĐ trả lời các hộ dân là yêu cầu áp dụng giá đất cao hơn là không có căn cứ.

Do đó, người khởi kiện đề nghị Tòa án hủy một phần Quyết định số 2900/QĐ-UBND ngày 07/9/2016 của UBND quận H về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản trên diện tích đất thu hồi đất, khi thu hồi 60m2 đất đứng tên ông Lê Hữu C và bà Đỗ Thị T, tại thửa đất số Z thuộc khu tái định cư Lô 13, phường Đ để áp dụng giá đất cao hơn.

* Người bị kiện là UBND quận H trình bày:

Thực hiện dự án phát triển giao thông đô thị thành phố Hải Phòng (tuyến đường Bắc Sơn –Nam Hải), UBND quận H đã tiến hành thu hồi 60m2 đất tại Khu tái định cư Lô 13, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng, theo Giấy CNQSD đất số BĐ 123785 do UBND quận H cấp ngày 24/01/2011, đứng tên ông Lê Hữu C và bà Đỗ Thị T.

Về trình tự, thủ tục và thẩm quyền thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, UBND quận H đã thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Các hộ dân Lô 13 đã ký nhận tiền, bàn giao mặt bằng sớm và đã được bố trí tái định cư đầy đủ. Đến ngày 24/6/2019 UBND quận H mới nhận được đơn khiếu nại của các hộ dân (do ông Trần Quốc I, ông Đặng Văn C, ông Lê Hữu U, ông Chu Văn D, bà Vũ Thị N đại diện) nhưng đã hết thời hiệu giải quyết khiếu nại. Lãnh đạo UBND quận H đã nhiều lần họp với các hộ dân cùng Luật sư đại diện của họ để vận động, giải thích và đã ban hành văn bản số 1485/UBND-TTPTQĐ ngày 23/7/2019 trả lời. Như vậy, UBND quận H đã tiến hành thu hồi đất, giải quyết các khiếu nại (kiến nghị) của các hộ dân theo đúng qui định của Luật Đất đaiLuật Khiếu nại.

Đối với việc người khởi kiện cho rằng một số hộ dân khác có đất bị thu hồi gần đó chây ỳ không chấp nhận chuyển đi, sau đó lại được duyệt bồi thường giá cao hơn (21.600.000đ/m2) thì UBND quận có ý kiến như sau: Đất của các hộ dân Lô 13 thuộc “Khu tái định cư Lô 13 Dự án Ngã 5 – Sân bay Cát Bi”, vị trí 1 bám mặt đường rộng 15m, nối ra đường L. Căn cứ Quyết định số 1106/QĐ-UBND ngày 22/6/2016 của UBND thành phố Hải Phòng, mức giá đền bù về đất là 6.600.000đồng/1m2.. Còn đất của các hộ dân được bồi thường mức giá 21.600.000đồng/m2 có vị trí bám mặt đường đường L, thuộc nút giao thông (ngã tư) với đường N.

Như vậy, việc UBND quận H đã tiến hành bồi thường hỗ trợ về giá đất cho các hộ dân Lô 13 là đúng theo quy định của pháp luật; đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của người khởi kiện.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Đỗ Thị T vắng mặt và có ý kiến đề nghị xử vắng mặt.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng có quan điểm:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý đến khi xét xử Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã cơ bản chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính (một số văn bản phát hành có lỗi đánh máy nhưng không làm thay đổi bản chất vụ án). Các đương sự đã cơ bản chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Về nội dung:

+ Các quyết định hành chính do UBND quận H ban hành là đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục quy định tại Điều 66, Điều 69 Luật đất đai 2013.

+ UBND quận H đã căn cứ quyết định 1106/QĐ-UBND ngày 22/6/2016 về việc phê duyệt giá đất của UBND thành phố Hải Phòng về giá đất cụ thể để thực hiện dự án thu hồi đất tại phường Đ, quận H là phù hợp qui định của pháp luật; người khởi kiện đã nhận tiền, bàn giao mặt bằng, nhận đất tái định cư. Đối với việc Giấy CNQSD đất do UBND quận H cấp ghi địa chỉ tại phường Đ1, hồ sơ thu hồi đất lại ghi vị trí tại phường Đ thì đã được phía người bị kiện giải thích tại phiên tòa là do việc phân chia lại địa giới hành chính giữa hai phường và cung cấp bản đồ địa giới hành chính làm chứng cứ; trong 30 hộ dân tại Lô 13 cùng khởi kiện thì có hộ giấy CNQSD đất ghi địa chỉ ở phường Đ1, có hộ giấy CNQSD đất ghi địa chỉ ở phường Đ, đều có đặc điểm tương đồng nhau về vị trí, diện tích, kích thước và cũng như khả năng sinh lợi, điều kiện kết cấu hạ tầng tương đương. Căn cứ Điều 3 Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng, điều chỉnh bảng giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất; việc áp giá đất của phường Đ cho các hộ dân có những đặc điểm tương đồng như trên không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người khởi kiện. Mặt khác, các văn bản được ban hành trong quá trình thực hiện việc thu hồi đất đều ghi vị trí đất bị thu hồi tại phường Đ, trong đó có rất nhiều tài liệu do người khởi kiện ký; trước khi mở phiên tòa thì người khởi kiện cũng đều trình bày là vị trí đất bị thu hồi của họ đều thuộc phường Đ.

Từ những phân tích nêu trên, Quyết định 2900/QĐ-UBND ngày 07/9/2016 về việc phê duyệt phương án bồi thường về giá đất đối với các hộ gia đình; được ban hành đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền, đảm bảo tính có căn cứ và hợp pháp. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện hủy một phần các quyết định hành chính nói trên là không có cơ sở để chấp nhận; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2 Điều 193 Luật TTHC tuyên bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thấy:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Ngày 19/6/2019 người khởi kiện cùng một số hộ dân tại Khu tái định cư Lô 13, phường Đ có đơn khiếu nại gửi UBND quận H đề nghị tăng giá bồi thường về đất khi thu hồi đất. Ngày 23/7/2019, UBND quận H ban hành Công văn số 1485/UBND - TTPTQD về việc trả lời (kiến nghị) các hộ dân, nội dung công văn đã căn cứ vào các qui định của pháp luật để kết luận “Kiến nghị của các hộ được áp dụng giá đất cụ thể 21.600.000 đồng/m2 …là không có căn cứ giải quyết…”. Như vậy, Công văn số 1485/UBND –TTPTQD có chứa đựng nội dung giải quyết khiếu nại, ảnh hưởng tới quyền lợi của người khởi kiện. Đến ngày 22/7/2020, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng nhận được đơn khởi kiện của người khởi kiện và tiến hành thụ lý giải quyết vụ án hành chính, là còn trong thời hiệu, đúng thẩm quyền, theo qui định tại khoản 4 Điều 32 và điểm a khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.

[2] Người khởi kiện vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có người đại diện tham gia tố tụng; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa mở lần thứ 3; đại diện UBND quận H (người bị kiện) vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 157 và Điều 158 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên theo thủ tục chung.

[3] Tại phiên tòa, người khởi kiện thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện, theo đó người khởi kiện chỉ yêu cầu huỷ một phần Quyết định số 2900/QĐ-UBND ngày 07/9/2016 của UBND quận H, về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ (về giá đất). Xét yêu cầu của người khởi kiện tại phiên tòa không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận sẽ xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính nói trên cùng văn bản giải quyết khiếu nại có liên quan.

- Về nội dung:

[4] Các bên đương sự đều xác nhận: Gia đình người khởi kiện là chủ sử dụng thửa đất 60m2, tại thửa đất số Z tại Khu tái định cư Lô 13, đường L, quận H, thành phố Hải Phòng. Ngày 07/9/2016, UBND quận H ban hành Quyết định số 2923/QĐ-UBND, thu hồi đối với 60m2 đất nói trên và Quyết định số 2900/QĐ- UBND, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản trên đất thu hồi, thực hiện dự án phát triển giao thông đô thị thành phố Hải Phòng. Ngày 26/10/2016, gia đình ông C đã chấp hành nhận tiền bồi thường, hỗ trợ là 1.647.475.030đ (trong đó bồi thường về đất là 396.000.000đ, tiền bồi thường về vật kiến trúc là 1.207.475.030đ, các khoản hỗ trợ khác là 44.000.000đ) . Sau đó, người khởi kiện cùng các hộ dân khác nhiều lần kiến nghị, khiếu nại đòi tăng giá đất, nhưng không được chấp nhận. Lời khai các đương sự phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Theo qui định tại khoản 2 Điều 66 Luật Đất đai, UBND cấp huyện có thẩm quyền ban hành Quyết định thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân. Do đó, UBND quận H ban hành Quyết định thu hồi đất, phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất của người khởi kiện là đúng qui định của pháp luật. Về trình tự thủ tục ban hành Thông báo thu hồi đất, kiểm kê tài sản, thực hiện lấy ý kiến và niêm yết công khai tại địa phương, ban hành các Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, phương án bồi thường, hỗ trợ bổ sung, đều đúng theo qui định tại Điều 66 và Điều 69 Luật Đất đai 2013; người khởi kiện cũng không có ý kiến phản đối hoặc khiếu nại về các thủ tục trên. Do đó, UBND quận H tiến hành thu hồi đất là đúng qui định của pháp luật về thẩm quyền và trình tự, thủ tục.

[6] Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, xác định được thửa đất của người khởi kiện bị thu hồi có vị trí tại “Khu tái định cư Lô 13 bám mặt đường rộng 15 m, thuộc dự án Ngã 5- Sân bay Cát Bi”, thuộc địa bàn phường Đ. Theo Quyết định số 1106/QĐ-UBND ngày 22/6/2016 của UBND TP. Hải Phòng về việc phê duyệt giá đất cụ thể để tính tiền bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất thực hiện dự án phát triển giao thông đô thị Hải Phòng tại phường Đ, quận H qui định: “... 5. Đường rộng từ 9-22m, thuộc dự án Ngã 5- Sân bay Cát Bi và đường có mặt cắt tương tự nối ra đường L: Vị trí 1, mức giá đất 6.600.000đ/m2...”. Xét Quyết định số 1106/QĐ- UBND được ban hành phù hợp với qui định tại khoản 3 Điều 114 Luật đất đai; Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014của Chính phủ và Quyết định 2970 QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của UBND TP. Hải Phòng về việc ban hành về bảng giá đất thành phố Hải Phòng 5 năm (2015-2019). Do đó, Quyết định số 2900/QĐ- UBND của UBND quận H (căn cứ Quyết định số 1106/QĐ-UBND) để phê duyệt giá đất cụ thể 6.600.000đ/m2 là phù hợp với quy định tại khoản 4 Điều 114 Luật đất đai năm 2013 và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ.

[7] Người khởi kiện cho rằng UBND quận H tính giá đất bồi thường 6.600.000đ/m2 là không phù hợp với qui định của pháp luật, thấp hơn nhiều giá đất giao dịch trên thị trường (thời điểm đó là trên 20.000.000đ/m2), nhưng không đưa ra được căn cứ chứng minh. Xét đất của gia đình người khởi kiện bám đường nội bộ rộng 15 m của “Khu tái định cư dự án Ngã 5-Sân bay Cát Bi”, không thuộc tuyến 2 đường L, nên yêu cầu đòi áp giá 8.640.000/m2 là không có căn cứ. Đối với đất của các hộ dân được áp giá 21.600.000đ/m2 là đất góc Ngã tư đường L (đường rộng 60 m) với đường N. Mặt khác, người khởi kiện cũng được nhận đất tái định cư gần đó với diện tích tương tự (gần như tái định cư tại chỗ), bám mặt đường rộng 30m, với giá 6.000.000đ/m2 (thấp hơn giá đất đã được đền bù 600.000 đồng) là đã bảo đảm quyền lợi.

[8] Đối với quan điểm của người khởi kiện tại phiên tòa cho rằng UBND quận H đã sai khi áp giá thu hồi đất của phường Đ, khi thu hồi đất tại phường Đ1 là không có sơ sở, bởi lẽ: Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện, trong tất cả các văn bản được ban hành kể từ khi Thông báo thu hồi đất (năm 2014 – nay), đều ghi vị trí đất thu hồi tại phường Đ, trong đó có rất nhiều tài liệu do người khởi kiện ký; Bản đồ địa giới hành chính của phường Đ1 và phường Đ đã cùng biên bản bàn giao mốc địa giới hành (kèm theo Nghị định số 106/2002/NĐ-CP ngày 20/12/2002 của Chính phủ), đã được thu thập và đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa đã thể hiện rõ mốc giới hành chính giữa 2 phường phân tách bởi đường L. Mặt khác, trong 30 hồ sơ khởi kiện giữa các hộ dân cùng ở Lô 13 đối với UBND quận H, đã được TAND thành phố Hải Phòng thụ lý cũng ngày, thì có nhiều hộ trên Giấy CNQSD đất được cấp (từ năm 2008 đến năm 2012) ghi địa chỉ ở phường Đ, có hộ ghi ở phường Đ1; trước khi mở phiên tòa thì người khởi kiện cũng đều trình bày là vị trí đất bị thu hồi của họ đều thuộc phường Đ. Do đó, ý kiến của người bị kiện khẳng định toàn bộ diện tích đất bị thu hồi lần này tại Lô 13 thuộc phường Đ; dự án tuyến đường Bắc Sơn-Nam Hải không thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân tại phường Đ1 là có cơ sở.

[9] Từ các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện về việc tuyên hủy một phần (giá đất bồi thường) của các Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản trên đất do UBND quận H ban hành, khi thu hồi đất của người khởi kiện tại “Khu tái định cư Lô 13 phường Đ”.

[10] Về án phí sơ thẩm: Người khởi kiện là người cao tuổi nên được miễn án phí hành chính sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 30; Điều 32; điểm a khoản 2 Điều 193; Điều 194 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;

- Căn cứ các điều 66, 67, 69, 71 và 75 Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014; Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Lê Hữu C, về việc tuyên hủy một phần (đơn giá bồi thường về đất) của Quyết định số 2900/QĐ-UBND ngày 07/9/2016 của UBND quận H, về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ về đất, tài sản trên diện tích đất thu hồi thực hiện Dự án phát triển giao thông đô thị thành phố Hải Phòng (hạng mục xây dựng tuyến đường Bắc Sơn –Nam Hải), khi thu hồi 60m2 đất đứng tên ông Lê Hữu C và bà Đỗ Thị T, tại lô đất số Z, thuộc Khu tái định cư lô 13 tại phường Đ, quận H, TP. Hải Phòng 2. Về án phí sơ thẩm: Ông Lê Hữu C được miễn án phí hành chính sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng số 45/2021/HC-ST

Số hiệu:45/2021/HC-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về