TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 99/2023/HC-ST NGÀY 18/08/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH
Trong ngày 21 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm vụ án hành chính thụ lý số 185/2023/TLST-HC ngày 03 tháng 7 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 145/2023/QĐXXST-HC ngày 03 tháng 8 năm 2023 giữa:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1979; Địa chỉ: Số D, ấp D, xã P, huyện C, tỉnh Long An.
2. Người bị kiện: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Nguyễn Văn T1 – Phó Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L. (Văn bản số 5786/STNMT- VPĐKĐĐ ngày 01/8/2023)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Bà Nguyễn Thị Anh T2 – Viên chức Văn phòng đăng ký đất đai trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L (Văn bản cử người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp số 5787/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 01/8/2023).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Tấn H, sinh năm 1962; Địa chỉ: Số F, Tổ B, ấp D, xã P, huyện C, tỉnh Long An.
(Bà Nguyễn Thị Kim T, bà Nguyễn Thị Anh T2 có mặt; Ông Nguyễn Văn T1 và ông Phạm Tấn H có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa, người khởi kiện – bà Nguyễn Thị Kim T trình bày:
Ngày 08/7/2009 Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Kim T đối với thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A, diện tích 124,5 m2, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Long An. Tháng 4/2023 bà Kim T thực hiện thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà nhận được văn bản số 1821/CNVPĐKĐĐ-ĐĐ ngày 11/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C xác định thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A (theo bản đồ cũ) tương ứng thửa đất số 18 (một phần thửa), tờ bản đồ số 13 (theo bản đồ mới) và thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phạm Tấn H. Bà T xác định bà là người sử dụng đối với thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A nhưng Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phạm Tấn H không đúng chủ sử dụng đất.
Do đó bà Nguyễn Thị Kim T khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Long An hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 616049 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho ông Phạm Tấn H ngày 08/3/2021 đối với thửa số 18, tờ bản đồ 13 tại xã P, huyện C, tỉnh Long An.
Tại Văn bản số 5743/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 31/7/2023 của– Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L trình bày có nội dung như sau:
Ngày 31/12/2010 bà Nguyễn Thị M được Ủy ban nhân dân huyện C ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số phát hành BĐ 336003 thuộc thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13, diện tích 2436,10 m2, loại đất lúa, xã P, huyện C, tỉnh Long An.
Ngày 25/01/2021 bà Nguyễn Thị M cùng chồng là ông Nguyễn Văn C chuyển nhượng diện tích đất 1169,5 m2 phần còn lại của thửa đất số 18, loại đất trồng lúa cho ông Phạm Tấn H theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng C1 công chứng số 297, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD. Hồ sơ do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C thụ lý. Văn phòng đăng ký đất đai trình Sở T ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông Phạm Tấn H số phát hành DB 616049 ngày 08/3/2021 là đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định.
Đối với yêu cầu của người khởi kiện, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo đúng quy định pháp luật.
Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L – bà Nguyễn Thị Anh T2 trình bày: Thống nhất theo nội dung tại Văn bản số 5743/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 31/7/2023 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L. Qua kiểm tra thực tế, thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A (theo bản đồ cũ) tương ứng thửa đất số 18 (một phần thửa), tờ bản đồ số 13 (theo bản đồ mới) do bà Nguyễn Thị Kim T sử dụng, thực tế và bà T cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Xét thấy cùng một thửa đất nhưng lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 02 chủ sử dụng khác nhau là chưa phù hợp với quy định pháp luật. Tuy nhiên, do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp thông qua chuyển nhượng nên theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Phạm Tấn H có trình bày ý kiến tại Biên bản làm việc ngày 25/7/2023 như sau: Ông H thống nhất theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Kim T. Ông H xác định trên thửa 18 mà ông H được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có một phần diện tích khoảng 124,5 m2 do bà Kim T sử dụng. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm: Trong quá trình thụ lý, xét xử, Tòa án tuân thủ đúng theo quy định Luật Tố tụng Hành chính.
Về nội dung vụ án: Ngày 08/7/2009 Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Kim T đối với thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A, diện tích 124,5 m2, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Long An. Ngày 08/3/2021 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 616049 cho ông Phạm Tấn H đối với thửa số 18, tờ bản đồ 13 tại xã P, huyện C, tỉnh Long An.
Căn cứ Văn bản số 1821/CNVPĐLĐĐ-ĐĐ ngày 11/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C xác định thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A (theo bản đồ cũ) tương ứng thửa đất số 18 (một phần thửa), tờ bản đồ số 13 (theo bản đồ mới), và thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phạm Tấn H.
Căn cứ biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An cũng xác định bà Nguyễn Thị Kim T đang quản lý sử dụng thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A (theo bản đồ cũ) tương ứng thửa đất số 18 (một phần thửa), tờ bản đồ số 13 (theo bản đồ mới), xung quanh thửa đất bà T đã rào hàng rào kết cấu một phần tường bê tông và lưới B40.
Như vậy Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 02 chủ sử dụng khác nhau trên cùng 01 thửa đất là chưa phù hợp với quy định pháp luật. Tuy nhiên do giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp thông qua chuyển nhượng nên theo quy định tại Điều 106 Luật Đất đai thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L mà thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim T là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim T.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của những người tham gia tố tụng và ý kiến Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về đối tượng khởi kiện và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Bà Nguyễn Thị Kim T khởi kiện Sở T yêu cầu Tòa án tỉnh Long An hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB616049 cấp ngày 08/3/2021 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho ông Phạm Tấn H. Đây là khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính.
[2]. Về thủ tục tố tụng:
Trong quá trình giải quyết vụ án, do người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu giải quyết vắng mặt suốt quá trình tố tụng, người khởi kiện có đơn yêu cầu không đối thoại nên Tòa án đã tiến hành lập biên bản không thể tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 Luật Tố tụng Hành chính. Do người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 158 Luật Tố tụng Hành chính.
[3]. Về thời hiệu khởi kiện:
Tháng 4/2023 bà Kim T thực hiện thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bà nhận được Văn bản số 1821/CNVPĐLĐĐ-ĐĐ ngày 11/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C xác định phần đất mà bà T đang sử dụng đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phạm Tấn H. Do đó ngày 07/6/2023 bà Nguyễn Thị Kim T nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Long An là trong thời hạn 01 năm nên còn thời hiệu theo quy định tại khoản 2, Điều 116 Luật Tố tụng Hành chính.
[4]. Về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính:
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 616049 cho ông Phạm Tấn H ngày 08/3/2021 đối với thửa số 18, tờ bản đồ 13 tại xã P, huyện C, tỉnh Long An trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà M, ông C với ông H là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định tại Điều 105 Luật Đất đai 2013.
[5]. Về nội dung của quyết định hành chính:
Ngày 08/7/2009 Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Thị Kim T đối với thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A, diện tích 124,5 m2, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Long An. Ngày 08/3/2021 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 616049 cho ông Phạm Tấn H đối với thửa số 18(thửa củ là 1563), tờ bản đồ 13 tại xã P, huyện C, tỉnh Long An.
Căn cứ Văn bản số 1821/CNVPĐLĐĐ-ĐĐ ngày 11/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C xác định thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A (theo bản đồ cũ) tương ứng thửa đất số 18 (một phần thửa), tờ bản đồ số 13 (theo bản đồ mới), và thửa đất số 18, tờ bản đồ số 13 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Phạm Tấn H.
Căn cứ biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An cũng xác định bà Nguyễn Thị Kim T đang quản lý sử dụng thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A (theo bản đồ cũ) tương ứng thửa đất số 18 (một phần thửa), tờ bản đồ số 13 (theo bản đồ mới), xung quanh thửa đất bà T đã rào hàng rào kết cấu một phần tường bê tông và lưới B40.
Như vậy cùng một thửa đất 1563, tờ bản đồ số 8A (theo bản đồ cũ) tương ứng thửa đất số 18 (một phần thửa), tờ bản đồ số 13 (theo bản đồ mới) nhưng Ủy ban nhân dân huyện C và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 02 chủ sử dụng khác nhau. Nội dung này được chứng minh qua lời khai của bà T, ông H, Văn bản số 1821/CNVPĐLĐĐ-ĐĐ ngày 11/4/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai tại huyện C, biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
[6]. Từ các căn cứ trên cho thấy Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 616049 cho ông Phạm Tấn H ngày 08/3/2021 đối với thửa số 18, tờ bản đồ 13 tại xã P, huyện C, tỉnh Long An là không đúng đối tượng sử dụng đất là trái với quy định tại Điều 99, Điều 100, Điều 166 Luật Đất đai 2013, nên yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim T là có căn cứ chấp nhận như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tại phiên tòa.
[7]. Về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng: bà Nguyễn Thị Kim T tự nguyện nộp là phù hợp Điều 357, Điều 358 Luật Tố Tụng Hành chính (đã nộp xong).
Về án phí: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L phải chịu án phí hành chính sơ thẩm theo quy định tại Điều 348 Luật Tố tụng Hành chính và Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban T3.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 116, Điều 137, Điều 135, Điều 158, Điều 348, Điều 30, Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính;
Căn cứ Điều 99, Điều 100, Điều 166 Luật Đất đai năm 2013;
Áp dụng Điều 32 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban T3.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim T.
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DB 616049 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp cho ông Phạm Tấn H ngày 08/3/2021 đối với thửa số 18, tờ bản đồ 13 tại xã P, huyện C, tỉnh Long An.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị Kim T chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 3.000.000 đồng. (đã nộp xong).
3. Về án phí: Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Kim T số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0003764 ngày 03/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Long An.
4. Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính số 99/2023/HC-ST
Số hiệu: | 99/2023/HC-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Long An |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 18/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về