Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính quản lý đất đai số 179/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 179/2023/HC-PT NGÀY 23/03/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 23 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hành chính thụ lý số 790/2022/TLPT-HC ngày 29 tháng 11 năm 2022 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai” tại hai điểm cầu: Điểm cầu trung tâm tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; Điểm cầu thành phần tại Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre. Do Bản án hành chính sơ thẩm số 55/2022/HC-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 449/2023/QĐ-PT ngày 03 tháng 3 năm 2023, giữa các đương sự:

1. Người khởi kiện: Ông Đinh Thành N, sinh năm 1966; Địa chỉ: xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của ông N:

- Ông Lê Hữu T, sinh năm 1984; Địa chỉ: xã P, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)

- Bà Phan Thị Ngọc T1, sinh năm 1996; Địa chỉ: khu phố Bình Khởi, Phường 6, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. (có mặt)

2. Người bị kiện:

2.1. Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn S – Chủ tịch (xin xét xử vắng mặt) mặt)

2.2. Sở Tài Nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Minh T2 – Giám đốc (xin xét xử vắng

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Thành N – Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Châu Thành. (xin xét xử vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

3.1. Bà Tạ Thị Thanh T3, sinh năm 1992; Địa chỉ: xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)

3.2. Ông Nguyễn Thanh T4, sinh năm 1976; Địa chỉ: xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt) Người đại diện theo ủy quyền của bà T3, ông T4: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1994; Địa chỉ: xã Mỹ Thạnh An, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre. (có mặt)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà T3, ông T4: Ông Trương Văn T5 – Luật sư Văn phòng Luật sư Trương Văn T5 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre. (có mặt)

4. Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Người khởi kiện ông Đinh Thành N có người đại diện theo ủy quyền là ông Lê Hữu T và bà Phan Thị Ngọc T1 trình bày:

Năm 1960 mẹ của ông Đinh Thành N là cụ Đinh Thị N1 (chết năm 2019) được ông bà cho cất nhà ở và khuôn viên diện tích khoảng hơn 300m2 thuộc thửa số 3, tờ bản đồ số 20 tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Từ đó cụ N1 ở liên tục trên thửa đất này. Ông N từ khi sinh ra đã sinh sống cùng cụ N1 trên phần đất này, đến khi ông lớn lên và lập gia đình thì cũng ở đây. Trong quá trình sinh sống ở đây thì ông đã có bỏ ra nhiều công sức đóng góp bồi đắp, nới rộng phần đất này cũng như xây dựng nhà ở kiên cố, ổn định cuộc sống cho đến nay. Việc ông sinh sống ở đây cũng không có ai có ý kiến hay tranh chấp gì.

Sau khi cụ N1 chết thì có một nhóm người đến yêu cầu ông dời nhà đi nơi khác để giao đất lại, xuất trình những giấy tờ để chứng minh rằng đã mua phần đất mà ông đang ở từ bà Tạ Thị Thanh T3, ông không đồng ý vì đây là phần đất mà mẹ ông để lại cho ông. Sau đó bà T3 có đơn khởi kiện tại Tòa án Châu Thành đòi ông phải trả đất, nhưng sau đó thấy không có căn cứ nên đã rút đơn khởi kiện.

Gần đây khi ông trích lục hồ sơ bà T3 kiện ông tại Tòa án Châu Thành để khởi kiện lại thì mới phát hiện bà T3 được Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2014. Sau đó bà T3 chuyển nhượng phần đất này cho ông Nguyễn Hoàng A, nhưng ông A thấy không thể đuổi ông đi nên đến năm 2019 ông A đã chuyển tên lại cho bà Tạ Thị Thanh T3.

Sau khi Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đình chỉ giải quyết vụ án mà bà T3 khởi kiện ông; thì ông có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre. Phần đất trên hiện là một phần thuộc thửa 370, tờ bản đồ số 20, diện tích 2.151m2 tọa lạc tại xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh T4.

Nhận thấy phần đất trên gia đình ông N đã quản lý sử dụng gần 60 năm không có tranh chấp. Bản thân ông cũng có công bồi lắp, cải tạo và xây dựng nhà ở kiên cố. Quá trình sử dụng đất thì ông có đóng thuế đầy đủ cho Nhà nước, đây cũng là nơi ở duy nhất của gia đình ông. Do đó, việc Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T3 và ông T4 là không phù hợp, ông đề nghị Tòa án xem xét hủy:

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 071482 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp ngày 17/6/2014 cho bà Tạ Thị Thanh T3 tại thửa 03, tờ bản đồ số 20, diện tích 320m2 tọa lạc tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 803258 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 06/8/2019 cho bà Tạ Thị Thanh T3 tại thửa 03, tờ bản đồ số 20, diện tích 320m2 tọa lạc tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 03, tờ bản đồ số 20, diện tích 320m2 tọa lạc tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre do ông Nguyễn Thanh T4 đứng tên.

- Một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX 679061 ngày 16/11/2020 đối với thửa 370, tờ bản đồ số 20, diện tích 2.151m2 tọa lạc tại xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh T4.

Người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành trình bày tại văn bản số 3812/UBND-NC:

Thửa đất số 03, tờ bản đồ 20, diện tích 320m2 tọa lạc tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, mục đích sử dụng gồm: 300m2 đất thổ cư (ONT) + 20m2 đất cây lâu năm (CLN) do ông Tạ Phước H đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BU 089663 được Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp ngày 29/4/2014. Sau đó, ngày 21/4/2014 ông Tạ Phước H lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho con là bà Tạ Thị Thanh T3 (hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân dân xã T chứng thực). Ngày 30/5/2014 ông Tạ Phước H có đơn đề nghị đăng ký biến động về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất. Trên cơ sở hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và các văn bản có liên quan. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thẩm định xét đúng trình tự thủ tục quy định trình Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện tiếp trình Ủy ban nhân dân huyện. Đến ngày 17/6/2014 Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Tạ Thị Thanh T3.

Ủy ban nhân dân huyện nhận thấy việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Tạ Thị Thanh T3 là đúng trình tự, thủ tục. Việc yêu cầu hủy quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của ông Đinh Thành N đối vơi việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất đã cấp cho bà Tạ Thị Thanh T3 là không có cơ sở.

Người bị kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre trình bày tại văn bản số 323/STNMT-VPĐK ngày 24/01/2022 và văn bản số 2282/STNMT-VPĐK ngày 17/6/2022:

1. Đối với hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Tạ Thị Thanh T3 đối với thửa 3, tờ bản đồ 20 tại xã T, huyện Châu Thành, số phát hành CS 803258 ngày 17/6/2014:

- Về quy định: Căn cứ Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.

- Về quy trình: Thủ tục số 17 thuộc Nghị Quyết 1718/QĐ-UBND ngày 13/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre về công bố 01 thủ tục hành chính ban hành mới, 30 thủ tục hành chính thay thế và 04 thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực đất đai thuộc thẩm quyền của Sở Tài nguyên và Môi trường;

- Về giấy tờ hợp pháp:

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp cho bà Tạ Thị Thanh T3, số phát hành BU 071482, số vào sổ cấp GCN: CH07023 ký ngày 17/6/2014 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Châu Thành xác nhận thay đổi ngày 07/3/2019.

+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 2701, quyển số 01/2019 – TP/CC-SCC/HĐGD ngày 20/7/2019 được Văn phòng công chứng Lê Hùng Dũng chứng nhận.

Việc Sở TNMT Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Tạ Thị Thanh T3 đối với thửa 3, tờ bản đồ 20 là đúng quy định của pháp luật.

Việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà Tạ Thị Thanh T3 có số phát hành CS 803258, số vào sổ cấp GCN: CS 02572 phải đảm bảo theo quy định tại khoản 7, Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ. Nếu yêu cầu thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp phải thực hiện theo quy định tại khoản 6, Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính Phủ.

Từ những cơ sở trên nhận thấy yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành số phát hành CS 803258 ngày 17/6/2014 đối với thửa 3, tờ bản đồ số 20 là không có căn cứ nên không có cơ sở xem xét, giải quyết.

2. Đối với hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh T4 đối với thửa 370, tờ bản đồ 20 tại xã T, huyện Châu Thành, số phát hành CX679061 ngày 16/11/2020:

- Về quy định: Căn cứ Điều 75 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai.

- Về quy trình: Thủ tục số 23 thuộc Nghị Quyết 1718/QĐ-UBNDngày 13/8/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre về công bố 01 thủ tục hành chính ban hành mới, 30 thủ tục hành chính thay thế và 04 thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực đất đai thuộc thẩm quyền của Sở Tài nguyên và Môi trường;

- Về giấy tờ hợp pháp:

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở TNMT Bến Tre cấp cho bà Tạ Thị Thanh T3, số phát hành CS 803258, số vào sổ cấp GCN: CS02572 ký ngày 06/8/2019 được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Châu Thành xác nhận thay đổi ngày 27/10/2020.

+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở TNMT Bến Tre cấp cho ông Nguyễn Thanh T4, số phát hành CL 039184, số vào sổ cấp GCN: CS08434 ký ngày 30/8/2017.

+ Đơn đề nghị tách thửa đất, hợp thửa đất ngày 30/10/2020 của ông Nguyễn Thanh T4.

Việc Sở TNMT Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh T4 đối với thửa 370, tờ bản đồ 20 là đúng quy định của pháp luật.

Việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Thanh T4 có số phát hành CX 679061, số vào sổ cấp GCN: CS 05222 phải đảm bảo theo quy định tại khoản 7, Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính Phủ. Nếu yêu cầu thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp phải thực hiện theo quy định tại khoản 6, Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP của Chính Phủ.

Từ những cơ sở trên nhận thấy yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát hành CX 679061 ngày 16/11/2020 đối với thửa 370, tờ bản đồ số 3 là không có căn cứ nên không có cơ sở xem xét, giải quyết.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4 có người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Văn Đ trình bày:

- Ông Nguyễn Thanh T4: Trước đây vợ chồng ông T4 và bà Nguyễn Thị Hồng T5 có nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với phần đất có diện tích 320m2, thuộc thửa 3, tờ bản đồ 20 tọa lạc tại xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre từ bà Tạ Thị Thanh T3.

Sau khi nhận chuyển nhượng phần đất trên ông T4, bà T5 đã thực hiện đầy đủ các thủ tục về thuế đối với nhà nước và việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên đã thực hiện xong.

Sau khi nhận chuyển nhượng, vợ chồng ông T4, bà T5 quản lý phần đất trên và nhập phần đất này vào thửa 338, tờ bản đồ 20, diện tích 1831m2 thành phần đất thuộc thửa 370, tờ bản đồ số 20, diện tích 2151m2. Phần đất này hiện nay đã được Sở TNMT Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh T4.

Việc mua bán chuyển nhượng nêu trên hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật, không trái điều cấm. Vợ chồng ông T4, bà T5 cũng đã thực hiện xong các nghĩa vụ với Nhà nước đối với phần đất trên. Hiện nay ông T4 cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, ông Nguyễn Thanh T4 không đồng ý đối với yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Thành N.

- Bà Tạ Thị Thanh T3: Phần đất diện tích 320m2, thuộc thửa 3, tờ bản đồ số 20 có nguồn gốc của cha mẹ bà T3. Phần đất trên được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 1994; sau đó bà T3 được cha mẹ tặng cho lại phần đất này.

Thửa đất này trước đây cha mẹ bà T3 cho mẹ con ông N ở nhờ đến hết đời, ngoài mẹ ông N thì còn có hai hộ khác. Khi bà T3 hỗ trợ tiền di dời nhà thì 02 hộ khác biết đất ở nhờ nên đã đồng ý dọn đi chỗ khác, trả lại đất cho bà T3. Riêng ông N yêu cầu số tiền lớn mới chịu di dời, qua nhiều lần thảo luận thì hai bên thống nhất số tiền dời đi là 50.000.000 đồng.

Trước đây cha mẹ bà T3 cho ở nhờ, nên mẹ ông N chỉ cất nhà trên phần đất diện tích khoảng 70m2 với chiều ngang khoảng 7m, dài 10m. Phần đất trên là căn nhà của mẹ ông N. Phần đất còn lại 02 hộ khác đã di dời và trả lại đất.

Sau đó vì cần tiền nên bà T3 chuyển nhượng phần đất 320m2, thuộc thửa 3, tờ bản đồ 20 cho ông Nguyễn Thanh T4 và bà Nguyễn Thị Hồng T5. Hiện nay các thủ tục chuyển nhượng đã hoàn tất. Ông T4, bà T5 đã vào quản lý phần đất trên. Việc mua bán chuyển nhượng hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, phần đất trên cha mẹ bà T3 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ lâu và khi bà T3 đứng tên thì không có ai phản đối. Ông N vẫn còn phần đất khác nhưng lại không chịu di dời, do đó bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Thành N.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 55/2022/HC-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre đã tuyên xử:

Căn cứ vào các điều 30, 32, 158, điểm b khoản 2 Điều 193, khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính;

Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Thành N, hủy các quyết định hành chính sau:

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 071482 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp ngày 17/6/2014 cho bà Tạ Thị Thanh T3 tại thửa 03, tờ bản đồ số 20, diện tích 320m2 tọa lạc tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 803258 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 06/8/2019 cho bà Tạ Thị Thanh T3 tại thửa 03, tờ bản đồ số 20, diện tích 320m2 tọa lạc tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

- Một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX 679061 ngày 16/11/2020 đối với phần diện tích 320m2 , thửa 370, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh T4.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/9/2022 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thanh T4 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện. Ngày 06/10/2022 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4 có người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn Đ thay đổi yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn Đ trình bày: Bản án sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì không đưa ông Tạ Phước H vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Hơn nữa việc xác định thời hiệu khởi kiện theo lời trình bày của người khởi kiện là chưa chính xác do người khởi kiện đã biết việc ông T4 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất qua thời hạn 1 năm (theo Biên bản hòa giải năm 2019) nên không còn thời hiệu để khởi kiện. Tòa án cấp sơ thẩm xem xét việc vắng mặt ông Đạt tại phiên tòa sơ thẩm là không hợp pháp và không có căn cứ. Do cấp sơ thẩm chưa đánh giá toàn diện các chứng cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án về cấp sơ thẩm xét xử lại.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4 là Luật sư Trương Văn T5 trình bày: Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng theo trình tự, thủ tục. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định không đưa ông Tạ Phước H vào tham gia tố tụng là chưa chặt chẽ. Trên diện tích 320m2 thì nhà ông N chỉ chiếm 191m2, còn phần diện tích trống còn lại của ông Trung đã thỏa thuận bán cho ông T4, ông T4 đang quản lý sử dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu kháng cáo, hủy bản án sơ thẩm giao về Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử lại.

Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện ông Đinh Thành N là bà Phan Thị Ngọc T1 trình bày: Yêu cầu kháng cáo của ông T4, bà T3 là vượt quá phạm vi kháng cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo, đình chỉ xét xử phúc thẩm. Việc Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre nhận định về thời hiện khởi kiện là đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, có mặt người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông T4, bà T3 và người bảo vệ đã đồng ý việc xét xử vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của ông T4, bà T3 là ông Nguyễn Văn Đ nên trình bày của ông Đ về việc cấp sơ thẩm vi phạm thủ tục tố tụng là không có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu: Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Đơn kháng cáo trong hạn luật định và hợp lệ được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Về nội dung vụ án: Vị kiểm sát viên cũng phân tích toàn bộ các chứng cứ có thể hiện trong hồ sơ vụ án và xét yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện, nhận thấy cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện và xác định thời hiệu khởi kiện vẫn còn là có căn cứ. Việc cấp giấy chứng nhận cho ông H, bà T3 là không đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật nên việc chuyển nhượng là không hợp pháp. Mặc dù phía gia đình ông H và T3 cho rằng thửa đất trên do ông bà cho bà N1 ở nhà nhưng không lập thành văn bản. Gia đình bà N1 đã sinh sống, sử dụng ổn đình từ năm 1966 đến nay. Bà T3 cho rằng ông N xây nhà thì bà T3 có ngăn cản nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện là có căn cứ, đúng pháp luật. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T4, bà Tạ Thị Thanh T3. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4 trong hạn luật định, đủ điều kiện để xem xét, giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo:

[2.1] Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính bị kiện:

Khi lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H năm 2014 đối với thửa đất số 03, tờ bản đồ 20, diện tích 320m2 thì trên đất đã tồn tại căn nhà của gia đình ông Đinh Thành N ở từ năm 1966. Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành không xem xét thực tế, không hỏi ý kiến của người trực tiếp sử dụng đất mà lập thủ tục cấp quyền sử dụng đất cho ông H. Sau đó ông H tặng cho bà T3. Bà T3 chuyển nhượng lại cho ông T4 và ông T4 được Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2020.

Như vậy, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre đối với thửa đất nêu trên là không đúng trình tự thủ tục theo quy định pháp luật.

[2.2] Về thẩm quyền ban hành:

Căn cứ Luật đất đai năm 2003; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa 03, tờ bản đồ số 20, diện tích 320m2 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành và Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre cấp cho bà Tạ Thị Thanh T3; ông Nguyễn Thanh T4 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre cấp cho ông Nguyễn Thanh T4 đối với thửa 270, tờ bản đồ 20, diện tích 2.151m2được ban hành đúng thẩm quyền.

[2.3] Về nội dung quyết định hành chính bị kiện:

[2.3.1] Ông Đinh Thành N trình bày phần đất thửa thửa số 3, tờ bản đồ số 20 cụ Đinh Thị N1 (chết năm 2019) là mẹ của ông được ông bà cho cất nhà ở từ năm 1960 diện tích khoảng hơn 300m2, gia đình ông N ở liên tục trên thửa đất này cho đến nay.

Căn cứ vào đơn khởi kiện của bà Tạ Thị Thanh T3 khởi kiện ông Đinh Thành N trong vụ án dân sự về “Tranh chấp quyền sử dụng đất” được Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý năm 2019 cùng các lời trình bày trong vụ kiện hành chính này thì bà T3 cho rằng phần đất trên gia đình bà cho bà N1 là mẹ của ông N ở nhờ từ năm 1966, khi cho ở nhờ thì ông nội bà nói miệng là cho bà N1 ở nhờ cho đến khi bà N1 chết thì trả đất lại cho gia đình bà. Ban đầu là xây dựng căn nhà lá, sau đó mới nới rộng thành căn nhà như hiện nay (theo biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 03/6/2022 thì hiện trạng trên đất có 01 căn nhà cấp 4 kết cấu: cột cây, nền lót gạch tàu, vách cây, mái tol, xung quanh nhà có hàng rào phân biệt so với phần đất kế cận của ông Nguyễn Thanh T4 thuộc thửa 338, tờ bản đồ số 20). Bà T3 cho rằng việc xây dựng nhà gia đình bà có ngăn cản, nhưng bà cũng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh có trình báo địa phương lập biên bản hay không. Từ đó, gia đình ông N tiếp tục xây dựng căn nhà như hiện nay.

Như vậy có căn cứ xác định gia đình ông Đinh Thành N đã ở trên phần đất này từ năm 1966, ở liên tục cho đến nay. Năm 2019 bà T3 có tranh chấp với ông N về phần đất này, nhưng sau đó bà T3 rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

[2.3.2] Phần đất này có nguồn gốc của cụ Tạ Văn N2 là ông nội của bà T3, sau để thừa kế lại cho cha bà T3 là ông Tạ Phước H thửa 120, tờ bản đồ số 1 (đo đạc chính quy là thửa 3, tờ bản đồ 20, diện tích 509.5m2. Ông Ngọc được Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/5/1996. Đến khi ông H nhận thừa kế từ cụ N2 thì ông tách một phần thửa 3, tờ bản đồ 20, diện tích 189.5m2 để chuyển nhượng cho ông Nguyễn Thanh T4 ngày 17/6/2014, ông T4 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cùng ngày 17/6/2014 phần đất còn lại của thửa 3, tờ bản đồ 20, diện tích 320m2ông H tặng cho bà Tạ Thị Thanh T3. Thửa đất số 3 này là phần có căn nhà do gia đình ông N đang quản lý sử dụng.

Thấy rằng, năm 2019 khi bà T3 tranh chấp với ông Đinh Thành N, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tiến hành đo đạc phần đất tranh chấp, phía ông T4 là người có phần đất giáp ranh cũng có ra chỉ ranh để đo đạc. Sau khi bà T3 rút đơn khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất, được Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đình chỉ theo Quyết định đình chỉ số: 67/2020/QĐST-DS ngày 11/8/2020. Ngày 13/10/2020 bà T3 lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phần đất trên cho ông T4. Như vậy, ông T4 biết rõ việc trên thửa 3, tờ bản đồ số 20 từ trước đến nay có căn nhà của ông Đinh Thành N. Tuy nhiên, ông T4 vẫn nhận chuyển nhượng phần đất này từ bà T3 mà không có thông báo cho ông N biết về việc mua bán đất, không thực hiện việc hỏi ý kiến của người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất bởi hầu như phần lớn diện tích thửa 3, tờ bản đồ số 20 hiện nay là căn nhà của ông Đinh Thành N. Như vậy, việc nhận chuyển nhượng đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T4 được xem là không ngay tình.

Hội đồng xét xử nhận thấy phần đất trên gia đình ông N đã quản lý sử dụng gần 60 năm không có tranh chấp, đã xây dựng nhà ở kiên cố gần hết diện tích đất. Do đó, việc Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, Sở Tài nguyên và Môi trường Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà T3 và ông T4 là không phù hợp, yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Thành N là có căn cứ nên được chấp nhận. Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Thành N là có căn cứ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4 ủy quyền cho ông Nguyễn Văn Đ cũng không có cung cấp hay bổ sung thêm tình tiết chứng cứ nào mới để làm cơ sở cho yêu cầu kháng cáo.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4 là không có cơ sở để chấp nhận. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.

[3] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4 phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật tố tụng Hành chính năm 2015; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Tạ Thị Thanh T3, ông Nguyễn Thanh T4. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 55/2022/HC-ST ngày 30 tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Bến Tre.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Thành N, hủy các quyết định hành chính sau:

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 071482 do Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành cấp ngày 17/6/2014 cho bà Tạ Thị Thanh T3 tại thửa 03, tờ bản đồ số 20, diện tích 320m2 tọa lạc tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS 803258 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp ngày 06/8/2019 cho bà Tạ Thị Thanh T3 tại thửa 03, tờ bản đồ số 20, diện tích 320m2 tọa lạc tại ấp Khánh Hội Tây, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.

- Một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX 679061 ngày 16/11/2020 đối với phần diện tích 320m2, thửa 370, tờ bản đồ số 20, tọa lạc tại xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Thanh T4.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Thanh T4, bà Tạ Thị Thanh T3 mỗi người phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hành chính phúc thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009787 ngày 30/9/2022 và biên lai thu số 0009789 ngày 06/10/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính quản lý đất đai số 179/2023/HC-PT

Số hiệu:179/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành:23/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về