Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính quản lý đất đai số 11/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 11/2023/HC-PT NGÀY 06/01/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Ngày 06 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 414/2022/TLPT-HC ngày 27-7-2022 về “Khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai”. Do bản án hành chính sơ thẩm số 09/2022/HC-ST ngày 09-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 3250/2022/QĐPT-HC ngày 21-12-2022, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Bùi Thị Đ, sinh năm 1942; địa chỉ : Ấp TT, xã LT, huyện BC, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ: Ông Nguyễn Phúc T, sinh năm 1994; địa chỉ : Ấp 1, xã BC, huyện DMC, tỉnh Tây Ninh (Văn bản ủy quyền ngày 02-6- 2021). Có mặt.

- Người bị kiện:

1. Ủy ban nhân dân huyện BC, tỉnh Tây Ninh.

Đa chỉ: Đường N, khu phố 1, thị trấn BC, huyện BC, tỉnh Tây Ninh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Văn H - Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện BC, tỉnh Tây Ninh. Có đơn xin vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Việt T - Chức vụ: Giám đốc Trung Tâm phát triển quỹ đất huyện BC, có mặt.

2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện BC, tỉnh Tây Ninh, có đơn xin vắng mặt.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Việt T- Chức vụ: Giám đốc Trung Tâm phát triển quỹ đất huyện BC, có mặt.

3. Trung Tâm phát triển quỹ đất huyện BC, tỉnh Tây Ninh; địa chỉ: Hẻm 16, đường Đ, khu phố 1, thị trấn BC, huyện BC, tỉnh Tây Ninh, có đơn xin vắng mặt.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Việt T - Chức vụ: Giám đốc Trung Tâm phát triển quỹ đất huyện BC, có mặt.

* Người kháng cáo: Người khởi kiện bà Bùi Thị Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo bản án sơ thẩm thì nội dung vụ án như sau:

Bà Đ có quyền sử dụng đất đối với diện tích 3680m2 đất lúa (thửa 322 diện tích 190m2, thửa 420 diện tích 3490m2), tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại ấp TT, xã LT, huyện BC, tỉnh Tây Ninh, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N332747, số sổ 03575/QSDĐ/104/QĐ-UB(H) được Chủ tịch Ủy ban nhân dân (Ủy ban nhân dân viết tắt là UBND) huyện BC cấp ngày 21-04-1999. Ngày 24-9-2002, Chủ tịch UBND huyện BC, tỉnh Tây Ninh ký ban hành Quyết định số 1091/QĐ-CT về việc thu hồi quyền sử dụng đất của bà để xây dựng các công trình khu kinh tế cửa khẩu MB. Bà Đ có biết việc đất của bà sẽ bị thu hồi thông qua trao đổi, thỏa thuận với Công ty TNHH Đầu tư Phi Long - Chi nhánh MB Tây Ninh (nay là Công ty cổ phần Đầu tư Phát triển Đô thị Phi Long) nhưng bà không được UBND huyện BC giao quyết định thu hồi đất theo luật định. Ngày 26-8-2003, Chủ tịch UBND huyện BC ký ban hành Quyết định số 1189/QĐ-CT về việc chi trả đền bù đất, vật kiến trúc, cây trái hoa màu, các chính sách hỗ trợ cho bà Đ để giải tỏa Quy hoạch xây dựng các công trình khu kinh tế cửa khẩu MB. Theo Quyết định này thì bà Đ được bồi thường tổng số tiền 77.693.300 đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, bà Đ không được UBND huyện BC giao quyết định nên không biết việc nhà nước sẽ chi trả cho bà số tiền này. Do đó, đến nay bà Đ vẫn chưa nhận được số tiền bồi thường theo Quyết định này. Ngày 03-6-2004, Chủ tịch UBND huyện BC ký ban hành Quyết định số 544/QĐ-CT về việc chi trả đền bù bổ sung về cây trái cho bà Đ. Theo đó, bà Đ được đền bù bổ sung 1.925.000 đồng. Tuy nhiên, trên thực tế, bà không được UBND huyện BC giao quyết định này nên bà Đ không biết việc nhà nước sẽ chi trả bổ sung cho tôi số tiền này. Do đó, đến nay bà Đ vẫn chưa nhận được số tiền bồi thường bổ sung theo Quyết định này. Ngày 29-01-2021, bà Đ có đơn yêu cầu Trung tâm phát triển quỹ đất (phát triển quỹ đất viết tắt là PTQĐ) huyện BC nhận tiền bồi thường đối với phần diện tích đất của bà bị thu hồi. Ngày 15-4-2021, Trung tâm PTQĐ huyện BC ban hành Công văn số 12/TT.PTQĐ về việc trả lời đơn yêu cầu của bà Đ. Theo đó, Trung tâm PTQĐ huyện BC xác định toàn bộ diện tích đất của bà đã được bồi thường. Ngày 29-4-2021, bà làm đơn khiếu nại Nhà nước thu hồi đất làm đường nhưng không trả tiền đền bù cho bà. Ngày 18-6-2021, Chủ tịch UBND huyện BC ký ban hành Công văn số 788/UBND về việc trả lời đơn khiếu nại của bà Bùi Thị Đ. Theo đó, UBND huyện BC xác định diện tích đất của bà Đ đã được bồi thường nên việc yêu cầu bồi thường của bà là không có cơ sở chấp thuận. Việc UBND huyện BC không giao cho bà các Quyết định nêu trên khi thực hiện việc thu hồi đất là vi phạm nghiêm trọng quyền, lợi ích hợp pháp của bà. Bên cạnh đó, bà vẫn chưa nhận được tiền bồi thường theo luật định khi nhà nước thu hồi đất. Do đó, để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bà nên bà tiến hành khiếu kiện quyết định hành chính về việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất và giải quyết khiếu nại.

Nay bà Đ yêu cầu hủy Quyết định số: 1091/QĐ-CT ngày 24-9-2002, Quyết định số 1189/QĐ-CT ngày 26-8-2003, Quyết định số 544/QĐ-CT ngày 03-6-2004 của Chủ tịch UBND huyện BC. Hủy Công văn số 12/TT.PTQĐ ngày 15-4-2021 của Trung tâm PTQĐ huyện BC và Công văn số 788/UBND ngày 18-6-2021 trả lời đơn khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện BC.

* Tại Bản tự khai ngày 05-4-2022, người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện BC, tỉnh Tây Ninh - Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Văn H trình bày: Yêu cầu khởi kiện của bà Đ là không có căn cứ, bởi vì các quyết định hành chính mà bà Đ khởi kiện được ban hành đảm bảo đúng pháp luật, đồng thời việc giao quyết định và chi trả tiền bồi thường cho bà Đ cũng đã thanh toán xong, có biên bản giao nhận tiền đền bù nên UBND huyện BC không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Đ.

* Tại Bản tự khai ngày 05-4-2022, người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện BC, tỉnh Tây Ninh trình bày: Các quyết định hành chính mà bà Đ khởi kiện ban hành đảm bảo đúng pháp luật, đồng thời việc giao quyết định và chi trả tiền bồi thường cho bà Đ cũng đã thanh toán xong, có biên bản giao nhận tiền đền bù nên không đồng ý yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Đ.

* Tại Văn bản số 51/TTPTQĐ ngày 10-11-2021, người bị kiện Trung Tâm phát triển quỹ đất huyện BC trình bày: Không đồng ý hủy Công văn số 12/TT.PTQĐ ngày 15-4-2021 của Trung tâm phát triển quỹ đất huyện BC.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 09/2022/HC-ST ngày 09-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã quyết định:

Căn cứ Điều 2 của Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 04-4-2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính; khoản 2 Điều 18 Luật Khiếu nại ngày 11-11-2011 của Quốc hội. Tuyên xử:

1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Đ về việc hủy Công văn số 12/TT.PTQĐ ngày 15-4-2021 của Trung tâm PTQĐ huyện BC, tỉnh Tây Ninh và Công văn số 788/UBND ngày 18-6-2021 của Chủ tịch UBND huyện BC, tỉnh Tây Ninh 

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Đ về việc hủy Quyết định số: 1091/QĐ-CT ngày 24-9-2002, 1189/QĐ-CT ngày 26-8-2003, 544/QĐ-CT ngày 03- 6-2004 của Chủ tịch UBND huyện BC, tỉnh Tây Ninh.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà của bà Bùi Thị Đ, nguời đại diện theo ủy quyền của bà Đ đề nghị chấp nhận đơn kháng cáo để sửa bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính - giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 09/2022/HC-ST ngày 09-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đi tượng khởi kiện: Các Quyết định và các văn bản lần lượt sau (Quyết định số 1091/QĐ-CT ngày 24-9-2002, Quyết định số 1189/QĐ-CT ngày 26-8-2003, Quyết định số 544/QĐ-CT ngày 03-6-2004 của Chủ tịch UBND huyện BC và Công văn số 12/TT.PTQĐ ngày 15-4-2021 của Trung tâm PTQĐ huyện BC, Công văn số 788/UBND ngày 18-6-2021 trả lời đơn khiếu nại của Chủ tịch UBND huyện BC) là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Ngày 05-7-2021, bà Bùi Thị Đ làm đơn khởi kiện nên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh thụ lý, giải quyết đúng theo quy định khoản 1 Điều 30, Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính 2015.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Công ty TNHH đầu tư PL không liên quan đến nội dung vụ kiện nên Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty PL tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là đúng pháp luật. Ngoài ra, đối với các Quyết định số 1091/QĐ-CT ngày 24-9-2002 về việc thu hồi quyền sử dụng đất của bà Bùi Thị Đ để xây dựng các công trình khu kinh tế cửa khẩu MB, Quyết định số 1189/QĐ-CT ngày 26-8-2003 CT về chi trả đền bù đất, Quyết định số 544/QĐ-CT ngày 03-6-2004 của Chủ tịch UBND huyện BC, tỉnh Tây Ninh. Bà Bùi Thị Đ đã nhận các quyết định này vào ngày 22-8-2003 và đã nhận tiền đền bù năm 2004 nhưng không khởi kiện. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết đối với các Quyết định trên là chính xác.

[3] Về thẩm quyền ban hành: Công văn số 12/TT.PTQĐ ngày 15-4-2021 do Trung tâm phát triển quỹ đất huyện BC ban hành và Công văn số 788/UBND ngày 18-6-2021 về trả lời đơn khiếu nại cho bà Bùi Thị Đ do Chủ tịch UBND huyện BC ban hành là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 66, Điều 69 Luật đất đai 2013 và Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ.

[4] Xét đơn kháng cáo của người khởi kiện bà Bùi Thị Đ, Hội đồng xét xử thấy rằng: Thửa đất tranh chấp có diện tích 3680m2 đất lúa (thửa 322 với 190m2, thửa 420 với 3490m2), tờ bản đồ số 7 tại ấp TT, xã LT, huyện BC, tỉnh Tây Ninh của bà Bùi Thị Đ (GCNQSDĐ số N 332747, số vào sổ 03575/QSDĐ/104/QĐ- UB(H) cấp ngày 21-4-1999). Thực hiện dự án Khu kinh tế cửa khẩu MB tỉnh Tây Ninh, hộ bà Đ bị thu hồi diện tích đất trên. Tuy nhiên, bà Đ cho rằng chưa nhận tiền bồi thường đối với phần đất bị thu hồi nên đã làm đơn khiếu nại gửi đến Trung tâm PTQĐ huyện BC ngày 29-01-2021. Đến ngày 15-4-2021, Trung tâm PTQĐ huyện BC ban hành Công văn số 12/TT.PTQĐ - không chấp nhận đơn của bà Đ với lý do bà Đ đã nhận tiền bồi thường vào năm 2002-2004 nên không được bồi thường khi thực hiện dự án đường 786 và đường ĐD10. Ngày 29-4-2021, bà Đ không đồng ý nên tiếp tục làm đơn khiếu nại. Ngày 18-6-2021, Chủ tịch UBND huyện BC ban hành Công Văn số 788/UBND với nội dung bà Đ đã nhận đầy đủ tiền bồi thường đối với diện tích 3.680m2 theo dự án Khu kinh tế cửa khẩu MB (giai đoạn 1 Khu 133 ha theo số vào sổ 3575/QSDĐ/104/QĐ-UB (H) cấp giấy chứng nhận ngày 21- 4-1999). Tại các Biên bản nhận tiền ngày 22-7-2004, ngày 17-8-2004 và Biên bản nhận tiền đền bù lần 2 ngày 19-8-2004 thể hiện bà Đ đã nhận đủ tổng số tiền đền bù là 79.618.300 đồng đối với diện tích 3.680m2. Mặt khác, tại Kết luận giám định số 367/KL.KTHS ngày 26-3-2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Chữ ký, chữ viết trên 3 các Biên bản nhận tiền ngày 22-7-2004, ngày 17- 8-2004 và Biên bản nhận tiền đền bù lần 2 ngày 19-8-2004 là của bà Bùi Thị Đ, cũng như dấu vân tay in trên Biên bản nhận tiền đền bù (ngày 22-7-2004; Biên bản nhận tiền đền bù lần 1 ngày 17-8-2004 là của bà Bùi Thị Đ. Như vậy, bà Đ đã nhận đủ số tiền đền bù 79.618.300 đồng.

[5] Đối với Công văn số 12/TT.PTQĐ ngày 15-04-2021 về việc trả lời đơn của bà Bùi Thị Đ của Trung tâm phát triển quỹ đất huyện BC và Công văn số 788/UBND ngày 18-6-2021 của Chủ tịch UBND huyện BC đúng trình tự, thủ tục ban hành lần lượt theo quy định tại Điều 2 Thông tư liên tịch hướng dẫn số 16/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 04-42015 của Bộ Tài nguyên & Môi trường - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính và khoản 2 Điều 18 Luật Khiếu nại ngày 11-11- 2011. Như phân tích ở phần [3], [4], bà Đ đã nhận tiền bồi thường 79.618.300 đồng khi thực hiện dự án làm đường và các Văn bản của cấp có thẩm quyền ban hành đúng quy định pháp luật. Do đó, Hội đồng xét thấy không có cơ sở chấp nhận đơn kháng cáo của người khởi kiện bà Bùi Thị Đ. Chấp nhận đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[6] Về án phí:

Bà Bùi Thị Đ là người cao tuổi nên được miễn án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015;

I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của người khởi kiện bà Bùi Thị Đ. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 09/2022/HC-ST ngày 09-6-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh.

Xử:

Áp dụng khoản 2 Điều 66, Điều 69 Luật đất đai năm 2013; Điều 2 của Thông tư liên tịch số 16/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 04-4-2015 của Bộ Tài nguyên và Môi trường - Bộ Nội vụ - Bộ Tài chính; khoản 2 Điều 18 Luật Khiếu nại ngày 11-11-2011 của Quốc hội.

1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Đ về việc đề nghị hủy Công văn số 12/TT.PTQĐ ngày 15-4-2021 của Trung tâm phát triển quỹ đất huyện BC, tỉnh Tây Ninh và Công văn số 788/UBND ngày 18-6-2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện BC, tỉnh Tây Ninh

2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Đ về việc hủy Quyết định số 1091/QĐ-CT ngày 24-9-2002, 1189/QĐ-CT ngày 26-8-2003, 544/QĐ-CT ngày 03- 6-2004 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện BC, tỉnh Tây Ninh.

II. Về án phí:

Căn cứ khoản 1, Điều 349 Luật tố tụng hành chính năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bà Bùi Thị Đ được miễn án phí hành chính phúc thẩm.

Các Quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bn án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 06 - 01 - 2023./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện quyết định hành chính quản lý đất đai số 11/2023/HC-PT

Số hiệu:11/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 06/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về