Bản án về khiếu kiện huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 795/2023/HC-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 795/2023/HC-PT NGÀY 11/09/2023 VỀ KHIẾU KIỆN HUỶ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 11 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 319/2023/TLPT-HC ngày 16 tháng 5 năm 2023 về việc “Khiếu kiện huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.

Do Bản án hành chính sơ thẩm số 09/2023/HC-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1840/2023/QĐPT-HC ngày 20 tháng 7 năm 2023, giữa các đương sự:

- Người khởi kiện: Bà Lê Thị N (có mặt).

Địa chỉ: Bon Ting Wel Đơm, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đăk Nông.

- Người bị kiện: Sở T tỉnh Đ.

Địa chỉ: Đường 23/3, phường N, thành phố G, tỉnh Đăk Nông.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Ngô Chí T. Chức vụ: Phó Giám đốc Sở T tỉnh Đ (văng mặt, có đơn xin xét xử văng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Huy H (có mặt) và bà Trần Thị L (văng mặt).

Địa chỉ: Bon Ting Wel Đơm, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đăk Nông.

Người đại diện theo ủy quyền của ông H, bà L: Ông Lương Minh K, sinh năm 1964 (có mặt).

Địa chỉ: Tổ dân phố 1, phường N, thành phố G, tỉnh Đăk Nông.

Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Huy H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30-6-2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, ngươi khởi kiện bà Lê Thị N trình bày:

Bà Lê Thị N sử dụng thửa đất số 03, tờ bản đồ số 37, diện tích 7.723m2 tại bon Ting Wel Đơm, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đăk Nông ổn định, không tranh chấp, có ranh giới rõ ràng với các hộ liền kề. Tuy nhiên, khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện đất Bà N đang sử dụng đã được Sở T tỉnh Đ cấp GCNQSDĐ số CD 289048 ngày 28-7-2016 cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L tại thửa đất số 57, tờ bản đồ số 37, diện tích 9.654m2. Bà đã tự thương lượng với gia đình ông H và bà L (giáp ranh với hộ Bà N) để giải quyết việc cấp chồng GCNQSDĐ nhưng không được, do đó, bà khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ nêu trên của ông H và bà L.

Đại diện theo ủy quyền của ngươi bị kiện Sở T tỉnh Đ trình bày:

Trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L nhận chuyển nhượng tư ông Bùi Đình Lĩnh và bà Nguyễn Thị Thanh Bình là đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, kết quả đo đạc, lồng ghép phát hiện GCNQSDĐ đã cấp cho ông H và bà L không đúng với vị trí thực tế đất đang sử dụng, chồng lên đất Bà Lê Thị N. Tuy nhiên, do nguồn gốc đất ông H và bà L là nhận chuyển nhượng, căn cứ điều 106 của Luật đất đai, Sở T tỉnh Đ thực hiện việc thu hồi, hủy bỏ giá trị pháp lý GCNQSDĐ khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đăk Nông đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Ngươi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L trình bày: Gia đình bà sử dụng đất ổn định, có ranh giới rõ ràng, không tranh chấp với các hộ liền kề, trong đó có Bà N.

Tại Bản án số 09/2023/HC-ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông đã quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị N, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 289048 do Sở T tỉnh Đ cấp ngày 28-7-2016 cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L đối với thửa đất số 57, tờ bản đồ số 37, diện tích 9.654m2, tọa lạc tại bon Ting Wel Đơm, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đăk Nông.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hành chính sơ thẩm, quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 23/3/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông có Quyết định kháng nghị số 1184/QĐ- VKS-HC kháng nghị bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Đăk Nông, đề nghị cấp phúc thẩm huỷ án sơ thẩm vì cho rằng cần tiến hành đo đạc, lồng ghép GCNQSDĐ của ông H và bà L lên thực địa đất Bà N đang sử dụng.

Ngày 23/3/2023, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Huy H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông, yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Lê Thị N.

Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Huy H thay đổi yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử huỷ án sơ thẩm với lý do cấp sơ thẩm không cho đo đạc, lồng ghép GCNQSDĐ của ông H và bà L lên thực địa đất Bà N đang sử dụng mà đã xác định gia đình ông H - bà L sử dụng đất của Bà N là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao vẫn giữ nguyên Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông.

Tại phần tranh luận:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Nguyễn Huy H và người đại diện theo uỷ quyền của ông H, bà L trình bày: Qua quá trình tranh tụng tại phiên toà, ông H, bà L đồng ý với bản án sơ thẩm về việc xác định diện tích 2.095m2 đất đang tranh chấp là của Bà N nên đồng ý huỷ giấy chứng nhận về phần này nên không kháng cáo huỷ án nữa. Tuy nhiên, việc bản án sơ thẩm huỷ toàn bộ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong đó có phần dịện tích đất không tranh chấp và thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông H nhưng không đề cập đến việc cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất cho ông sẽ gây khó khăn cho vợ chồng ông H khi cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, ông đề nghị cấp phúc thẩm cần bổ sung về phần này.

- Người khởi kiện - Bà Lê Thị N đồng ý với ý kiến đề nghị tại phần tranh luận của phía ông Nguyễn Huy H.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng trình tự thủ tục theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Các đương sự đã được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.

Về nội dung: Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm theo Quyết định kháng nghị số 1184/QĐ-VKS-HC của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông. Đề nghị Hội đồng xét xử huỷ án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về việc xét xử văng mặt đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện – Sở T tỉnh Đ văng mặt (có đơn đề nghị xử văng mặt). Căn cứ khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính, Tòa án xét xử văng mặt người bị kiện.

[2] Tại phiên toà phúc thẩm, qua quá trình tranh tụng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Nguyễn Huy H đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm nên rút yêu cầu kháng cáo về việc huỷ án sơ thẩm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử bổ sung vào phần nhận định của bản án phúc thẩm để vợ chồng ông không gặp khó khăn trong việc cấp đổi lại Giấy chứng nhận phần diện tích đất còn lại thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông. Căn cứ Khoản 3 Điều 229 Luật tố tụng hành chính, đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần yêu cầu kháng cáo nêu trên của ông Nguyễn Huy H.

[3] Về nội dung giải quyết yêu cầu kháng cáo, kháng nghị:

[3.1] Về đối tượng khởi kiện, quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết và thời hiệu khởi kiện:

Người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 289048 do Sở T tỉnh Đ cấp ngày 28-7-2016 cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ tranh chấp và thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 3; Khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính vẫn còn theo quy định tại Khoản 2 Điều 116 của Luật tố tụng hành chính.

[3.2] Xét tính hợp pháp của quyết định bị khiếu kiện - về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 289048 do Sở T tỉnh Đ cấp ngày 28-7-2016 cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L là đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 37; Điều 79 Nghị định 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014;

[3.3]. Xét tính hợp pháp của Quyết định hành chính bị khiếu kiện - về nội dung:

[3.3.1]. Tại bản tự khai ngày 10/10/2022 của người khởi kiện và tại phiên toà phúc thẩm Bà N và phía ông H đều xác định phần đất Bà N tranh chấp có diện tích 2.095m2 trên tổng diện tích 9.654m2 thửa số 57 tờ bản đồ số 37, theo Giấy chứng nhận QSDĐ số CD 289048 ngày 28-7-201 do Sở T tỉnh Đ cấp cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L; tư trước đến nay phần đất này do Bà N trực tiếp quản lý, sử dụng.

[3.3.2]. Xét lời khai của các bên của đương sự cũng phù hợp với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 10-01-2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông ghi nhận: Thửa đất bà Lê Thị N sử dụng có ranh giới rõ ràng, không tranh chấp với hộ liền kề ông Nguyễn Huy H (nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Bùi Đình Lĩnh và bà Nguyễn Thị Thanh Bình), cụ thể: Ranh giới được phân định bằng hàng rào cọc bê tông do gia đình ông H làm hàng rào; cây cà phê trên đất Bà N trồng năm 2004, còn cà phê trên đất ông H trồng năm 1996.

[3.3.3]. Tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo - ông H và người đại diện hợp pháp của ông H, bà L cũng thưa nhận và đồng ý với bản án sơ thẩm về việc xác định diện tích đất đang tranh chấp 2.095m2 là của Bà N nên đồng ý huỷ giấy chứng nhận theo quyết định của bản án sơ thẩm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm bổ sung trong nhận định của bản án để thuận tiện cho gia đình ông H khi cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích đất còn lại trên giấy chứng nhận QSDĐ số CD 289048 ngày 28-7-2016 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của gia đình ông không tranh chấp.

[3.3.4]. Như vậy, trên cơ sở lời khai thống nhất của các bên đương sự, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất giữa các bên, có đủ cơ sở xác định, trong quá trình cấp GCNQSDĐ cho bà Nguyễn Thị Thanh Bình và ông Bùi Đình Lĩnh, UBND thành phố Gia Nghĩa có sai sót, dẫn đến sau đó Sở T tỉnh Đ cấp GCNQSDĐ số CD 289048 ngày 28-7-2016, thửa đất số 57, tờ bản đồ số 37 cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L (trên cơ sở nhận chuyển nhượng) với tổng diện tích 9.654m2, trong đó chồng lấn lên phần diện tích đất của Bà N là 2.095m2. Do đó, Bà N khởi kiện yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên là có cơ sở. Bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà N là đúng pháp luật.

[3.3.5]. Do việc người bị kiện cấp giấy chứng nhận GCNQSDĐ số CD 289048 ngày 28-7-2016, thửa đất số 57, tờ bản đồ số 37 cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L chỉ trùng diện tích đất của Bà N là 2.095m 2/9.654m2. Do đó, Toà án chỉ huỷ giấy chứng nhận nêu trên đối với phần diện tích 2.095m2. Phần diện tích còn lại không tranh chấp, sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật, phía UBND sẽ điều chỉnh cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H, bà L theo qui định. Do đó, yêu cầu bổ sung phần nhận định này của ông H là hoàn toàn có cơ sở, được chấp nhận.

[3.3.6]. Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tham gia phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử huỷ án sơ thẩm vì cho rằng cần tiến hành đo đạc, lồng ghép GCNQSDĐ của ông H và bà L lên thực địa đất Bà N đang sử dụng. Hội đồng xét xử thấy rằng những nội dung này đã được Toà án cấp sơ thẩm thu thập, làm rõ thể hiện tại: Sơ đồ lồng ghép hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố Gia Nghĩa; đã tiến hành xác minh tại UBND xã Đăk Min về nguồn gốc, quá trình kê khai đăng ký sử dụng đất và xem xét thẩm định tại chỗ (bút lục số 02, 87, 91-92, 93); lời khai thống nhất của người khởi kiện, người bị kiện và đặc biệt là lời khai của người kháng cáo tại phiên toà phúc thẩm cũng đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm. Do đó, việc kháng nghị đề nghị huỷ án sơ thẩm vì các lý do trên là không cần thiết và không có cơ sở chấp nhận.

[4]. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Huy H phải chịu án phí hành chính phúc thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trư vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp (do bà Trần Thị L nộp thay) theo Biên lai thu số 0000251 ngày 30/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đăk Nông. Sau khi cấn trư, ông H đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 229; khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo huỷ án sơ thẩm của ông Nguyễn Huy H. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Huy H về việc bổ sung tại phần nhận định.

2. Không chấp nhận yêu cầu kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông, giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 09/2023/HC ST ngày 09 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông.

2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị N, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 289048 do Sở T tỉnh Đ cấp ngày 28-7-2016 cho ông Nguyễn Huy H và bà Trần Thị L đối với thửa đất số 57, tờ bản đồ số 37, diện tích 9.654m2, tọa lạc tại bon Ting Wel Đơm, xã Đ, thành phố G, tỉnh Đăk Nông.

2.2. Về án phí hành chính sơ thẩm: Sở T tỉnh Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đông) án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn trả cho bà Lê Thị N số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đông) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai số 0000147 ngày 26-8-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đăk Nông.

3. Về án phí hành chính phúc thẩm: ông Nguyễn Huy H phải chịu án phí hành chính phúc thẩm 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trư vào tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000đ ba trăm nghìn đồng) đã nộp (do bà Trần Thị L nộp thay) theo Biên lai thu số 0000251 ngày 30/3/2023 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Đăk Nông. Sau khi cấn trư, ông H đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể tư ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về khiếu kiện huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 795/2023/HC-PT

Số hiệu:795/2023/HC-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hành chính
Ngày ban hành: 11/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về