Bản án về hợp đồng vay tài sản số 03/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VỊ THỦY, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 03/2024/DS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 01/02 và ngày 05/02/2024, tại trụ sở TAND huyện Vị Thủy mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 68/2023/TLST-DS, ngày 20/4/2023 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2024/QĐXXST-DS, ngày 05/01/2024, Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2024/QĐST-DS ngày 22/01/2024 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị V, sinh năm 1960. Địa chỉ: ấp 3, xã Vị T, huyện V, tỉnh Hậu Giang. Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Lê N Địa chỉ: ấp H, xã Hòa L, huyện Giồng R, tỉnh Kiên Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị X, sinh năm 1948.

Địa chỉ: ấp 9, xã Vị T, huyện V, tỉnh Hậu Giang. Có mặt. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 01/3/2023 nguyên đơn bà Huỳnh Thị V trình bày:

Từ ngày 20/8/2016 đến ngày 19/3/2017 bà Huỳnh Thị X có nhiều lần mượn tiền và vàng của bà tổng cộng số tiền 76.000.000 đ và 01 lượng vàng 24k. Đến ngày 05/5/2020 thì bà và bà Huỳnh Thị X có làm giấy nợ, bà Huỳnh Thị X thừa nhận thiếu bà số tiền 76.000.000 đ và 01 lượng vàng 24k, do bà Huỳnh Thị X không biết chữ nên bà Huỳnh Thị X gạch thập và ông Nguyễn Thành T ghi tên dùm bà Huỳnh Thị X. Bà nhiều lần yêu cầu bà Huỳnh Thị X trả tiền thì bà Huỳnh Thị X chỉ trả được số tiền 76.000.000 đ, còn nợ lại 01 lượng vàng đến nay không trả. Nay bà yêu cầu bà Huỳnh Thị X trả cho bà 01 lượng vàng 24k.

Tại biên bản ghi lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Huỳnh Thị X trình bày:

Bà có nợ của bà Huỳnh Thị V số tiền 76.000.000 đ nhưng bà đã trả xong. Bà có gạch thập vào giấy nợ do bà Huỳnh Thị V viết và có ông Nguyễn Thành T chứng kiến viết tên của bà vào giấy nợ dùm bà. Bà không có nợ vàng của bà Huỳnh Thị V. Bà đã được xem qua giấy nợ do bà Huỳnh Thị V cung cấp thì giấy nợ này không phải do bà gạch thập. Bà chỉ gạch thập vào giấy nợ do bà Huỳnh Thị V viết và đưa cho bà cất giữ. Lúc bà Huỳnh Thị V viết giấy nợ xong không có đọc lại cho bà nghe nhưng do tin tưởng bà Huỳnh Thị V nên bà gạch thập và nhờ ông Nguyễn Thành T viết tên bà dùm. Bà không biết trong giấy nợ có ghi bà nợ 01 lượng vàng.

Người làm chứng ông Nguyễn Thành T trình bày: Ông là hàng xóm của bà Huỳnh Thị X, ông và bà Huỳnh Thị V, bà Huỳnh Thị X không có mâu thuẫn gì với nhau. Khi ông chạy xe chở bà Huỳnh Thị X về nhà thì gặp bà Huỳnh Thị V, bà Huỳnh Thị X và bà Huỳnh Thị V có cự cải về tiền bạc. Ông có kêu bà Huỳnh Thị V gom tổng số nợ lại để bà Huỳnh Thị X trả từ từ 2.500.000 đ/tháng. Lúc mới viết giấy nợ thì bà Huỳnh Thị V nói bà Huỳnh Thị X nợ 76.000.000 đ. Bà Huỳnh Thị V chỉ nói vậy mà không đọc lại biên nhận nợ cho bà Huỳnh Thị X nghe. Bà Huỳnh Thị X không biết đọc, không biết viết nên bà Huỳnh Thị X gạch thập vào giấy nợ. Khi ông viết tên dùm bà Huỳnh Thị X ông cũng không đọc lại nội dung. Sau này bà Huỳnh Thị X có trả cho bà Huỳnh Thị V không thì ông không biết rõ. Ông có xem qua tờ biên nhận ghi ngày 05/5/2020 do bà Huỳnh Thị V cung cấp và giấy nợ ghi ngày 04/5/2020 do bà Huỳnh Thị X cung cấp. Ông xác định, ông chỉ ghi tên bà Huỳnh Thị X vào tờ giấy nợ ghi ngày 04/5/2020 do bà Huỳnh Thị X cung cấp, tờ giấy nợ ghi ngày 05/5/2020 không phải chữ viết của ông.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thị V giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và thống nhất biên nhận nợ do bà Huỳnh Thị X cung cấp. Cả 02 tờ giấy nợ đều được lập cùng thời điểm và do bà Huỳnh Thị V viết, mỗi bên giữ 01 bản, giấy nợ bà Huỳnh Thị V giữ có sửa ngày nhưng về nội dung là giống như nhau.

Bà Huỳnh Thị X vắng mặt tại phiên tòa.

Kiểm sát viên phát biểu về việc thụ lý giải quyết vụ án của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử, cũng như ý thức chấp hành pháp luật của các bên đương sự là đúng pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về án phí: Đề nghị giải quyết theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về xác định quan hệ pháp luật: Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn bà Huỳnh Thị V yêu cầu bà Huỳnh Thị X trả số vàng còn nợ 01 lượng (10 chỉ) vàng. Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy thụ lý quan hệ tranh chấp là “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” là đúng.

[2]. Về xác định thẩm quyền: Bà Huỳnh Thị X có địa chỉ cư trú tại ấp 9, xã Vị Trung, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang nên Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]. Về việc vắng mặt của đương sự: Bà Huỳnh Thị X đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa không lý do. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Huỳnh Thị X theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[4]. Về nội dung khởi kiện:

Bà Huỳnh Thị V yêu cầu bà Huỳnh Thị X trả 10 chỉ vàng 24k, để chứng minh cho yêu cầu của mình bà Huỳnh Thị V cung cấp giấy nhận nợ ghi ngày 05/5/2020 (có sửa chữa ngày). Có dấu gạch thập (+) và có ghi tên “Huỳnh Thị X” do ông Nguyễn Thành T ghi dùm. Nội dung giấy nhận nợ ghi là bà Huỳnh Thị V cho bà Huỳnh Thị X mượn tổng cộng là 76.000.000 đ và 01 lượng vàng 24k (9999). Tuy nhiên bà Huỳnh Thị X không thừa nhận dấu gạch thập trong tờ biên nhận do bà Huỳnh Thị V cung cấp là của bà ghi và ông Nguyễn Thành T cũng không thừa nhận chữ Huỳnh Thị X là do ông ghi. Tuy nhiên bà Huỳnh Thị X cung cấp cho Tòa án tờ nhận nợ ghi ngày 04/5/2020, nội dung giấy nhận nợ ghi là bà Huỳnh Thị V cho bà Huỳnh Thị X mượn tổng cộng là 76.000.000 đ và 01 lượng vàng 24k (9999) và có dấu gạch thập của bà Huỳnh Thị X và chữ tên Huỳnh Thị X do ông Nguyễn Thành T ghi. Bà Huỳnh Thị X thừa nhận dấu gạch thập trên tờ giấy nhận nợ ngày 04/5/2020 do bà cung cấp là do bà ghi, ông Nguyễn Thành T cũng thừa nhận chữ tên Huỳnh Thị X ghi trong giấy nhận nợ ngày 04/5/2020 là do ông ghi dùm bà Huỳnh Thị X. Xét thấy tại phiên tòa đại diện nguyên đơn thống nhất nội dung giấy nợ do bà Huỳnh Thị X cung cấp và yêu cầu bà Huỳnh Thị X có nghĩa vụ trả 01 lượng vàng còn nợ. Bà Huỳnh Thị X cho rằng bà Huỳnh Thị V không có đọc lại nội dung biên nhận cho bà nghe và bà không có nợ 01 lượng vàng nên bà không đồng ý trả là không có cơ sở. Tuy bà không biết đọc, không biết viết nhưng dấu gạch thập bà thừa nhận là do bà tự ghi thì cũng là một hình thức thừa nhận đối với nội dung biên nhận lúc bà Huỳnh Thị V lập có mặt bà và người làm chứng. Lời trình bày của bà Huỳnh Thị X bà Huỳnh Thị V không thừa nhận. Trường hợp bà không biết đọc bà có quyền yêu cầu bà Huỳnh Thị V đọc cho bà nghe hoặc nhờ ông Nguyễn Thành T đọc lại dùm bà trước khi bà ghi dấu thập xác nhận. Vì ông Nguyễn Thành T là người trực tiếp chứng kiến từ đầu lúc hai bên thỏa thuận ghi giấy nợ và ông Nguyễn Thành T là người yêu cầu hai bên làm giấy để tránh mâu thuẫn với nhau. Do đó, bà Huỳnh Thị X có đủ điều kiện để biết nội dung bà Huỳnh Thị V ghi nhưng bà không thực hiện mà do bà tin tưởng bà Huỳnh Thị V như lời bà trình bày thì bà phải chịu hậu quả đối với hành vi của mình. Vì vậy có căn cứ để chấp nhận lời trình bày của bà Huỳnh Thị V.

[4]. Về án phí: áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị đơn được miễn án phí. Nguyên đơn thuộc trường hợp được miễn tiền tạm ứng án phí nên không phải xem xét xử lý tiền tạm ứng án phí khi giải quyết vụ án.

Các đương sự còn được kháng cáo theo luật định;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 5, 6, 26, 35, 39, 91, 147, 273, 227 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 463, 466 Bộ luật dân sự 2015.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị V. Buộc bà Huỳnh Thị X có nghĩa vụ trả cho bà Huỳnh Thị V 10 (mười) chỉ vàng 24k (loại 99,99%).

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Huỳnh Thị X được miễn án phí.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ tại địa phương nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về hợp đồng vay tài sản số 03/2024/DS-ST

Số hiệu:03/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vị Thuỷ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 05/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về