Bản án về đòi tài sản và tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh số 63/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 63/2022/DS-PT NGÀY 24/01/2022 VỀ ĐÒI TÀI SẢN VÀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG HỢP TÁC KINH DOANH

Ngày 24 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số:

230/2021/TLPT-DS ngày 16 tháng 3 năm 2021 về đòi tài sản và tranh chấp Hợp đồng hợp tác kinh doanh.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 1610/2020/DS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 4886/2021/QĐ-PT ngày 01/12/2021; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Phạm Kevin H, sinh năm 1984 Địa chỉ: 6632 16th Ave Brooklyn NY 11204 USA Người đại diện theo ủy quyền: Ông Tạ Thanh P, sinh năm 1973 Địa chỉ: số 115/26 Lê Trọng Tấn, phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

(có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Vũ Quốc Toản – thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt) Bị đơn:

1. Công ty TNHH Truyền thông NK Địa chỉ: Căn P7-OT07 tầng 30, Tòa nhà Park 7, số 208 đường Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Diễm P, sinh năm 1978 (có mặt) Địa chỉ: A11.15 Căn hộ và Trung Tâm Thương mại Đông Phương, 685 Âu Cơ, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bà Phạm Hồng N, sinh năm 1986 (có mặt) Địa chỉ: Số 107/40 đường T, Phường T, Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Lê Nam P, sinh năm 1988 (có mặt) Địa chỉ: Số 69/38 đường Nguyễn Đình Chiểu, phường 2, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1984;

2. Ông Nguyễn Văn H.

Cùng địa chỉ: Số 5/38, đường Trương Đăng Quế, Phường 1, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có đơn xin vắng mặt) - Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Phạm Kevin H và bị đơn Công ty TNHH Truyền thông NK.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Phạm Kevin H có đơn khởi kiện và bà Lê Thị Thắm là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày: Ông Phạm Kevin H và bà Phạm Hồng N là bạn bè nên ông Phạm Kevin H có chuyển cho bà Phạm Hồng N số tiền 200.000.000 đồng để hỗ trợ góp vốn cho bà Phạm Hồng N thành lập công ty TNHH truyền thông NK (gọi tắt là “Công ty NK”) thông qua việc chuyển khoản tại ngân hàng. Cụ thể: ngày 02/03/2016 ông Phạm Kevin H nhờ ông Nguyễn Văn H và ông Nguyễn Hoàng K chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của bà Phạm Hồng N với số tiền 200.000.000 đồng.

Bà Phạm Hồng N là đại diện hợp pháp của Công ty NK. Bà Phạm Hồng N nhờ ông Phạm Kevin H chuyển tiếp số tiền 1.900.000.000 đồng vào tài khoản số 140414851035250 của Công ty NK tại Ngân hàng TMCP XNK Việt Nam (Eximbank). Ông Phạm Kevin H đã nhờ ông Nguyễn Hoàng K chuyển tiền vào tài khoản nêu trên 03 lần tổng số tiền 1.900.000.000 đồng. Mục đích việc chuyển tiền là cùng hùn vốn mua phim.

Sau khi chuyển số tiền nêu trên, bà Phạm Hồng N và Công ty NK không hoàn trả cho ông Phạm Kevin H số tiền nêu trên. Nay ông khởi kiện yêu cầu bà Phạm Hồng N phải trả 200.000.000 đồng và Công ty NK phải trả 1.900.000.000 đồng cho ông.

Bị đơn bà Phạm Hồng N trình bày tại bản tự khai và các biên bản hòa giải: Bà và ông Phạm Kevin H (tên thường gọi Khánh) có mối quan hệ bạn bè từ trước. Khi biết bà Phạm Hồng N có ý định thành lập công ty NK khoảng đầu năm 2016 thì ông Kevin Hoàng đã tự nguyện hỗ trợ cho bà một số tiền để thành lập Công ty. Bà Phạm Hồng N xác nhận đã nhận 200.000.000 đồng của ông Kevin Hoàng từ số tài khoản của ông Nguyễn Hoàng K và ông Nguyễn Văn H. Số tiền này bà đã đầu tư hết cho Công ty NK như thuê mặt bằng, mua trang thiết bị nên không bà không đồng ý trả lại tiền đã nhận của ông Phạm Kevin H là 200.000.000 đồng. Bà Phạm Hồng N xác nhận tại thời điểm bà làm Giám đốc của Công ty NK, ông Kevin Hoàng đã chuyển vào tài khoản của Công ty NK là 1.900.000.000 đồng để mua bán phim Võ Tắc Thiên. Nhưng sau đó bà không còn làm giám đốc của Công ty NK nữa và những hoạt động sau này đã được chuyển giao lại cho công ty. Việc kinh doanh, hợp tác giữa ông Kevin Hoàng và Công ty NK bà không biết và không chịu trách nhiệm kể từ thời điểm bà không còn làm giám đốc đại diện theo pháp luật của công ty.

Bị đơn Công ty TNHH Truyền thông NK có bà Nguyễn Thị Diễm P đại diện theo ủy quyển trình bày tại bản tự khai ngày 18/7/2019 và các biên bản hòa giải trình bày:

Công ty cho rằng 1.900.000.000 đồng là bao gồm số tiền Công ty NK và ông Kevin Hoàng hợp tác dùng để mua bán phim và duy trì hoạt động khác của công ty. Hai bên có hợp tác kinh doanh bằng hình thức thỏa thuận miệng. Về việc sử dụng số tiền của ông Kevin Hoàng được thực hiện như sau:

Công ty NK ký hợp đồng mua phim Võ Tắc Thiên của Công ty T. Công ty T đã giao cho Công NK 82 tập phim. Thời hạn khai thác phim là 2 năm kể từ ngày bàn giao, giá tiền là 28.500.000 đồng/tập x 82 tập = 2.337.000.000 đồng (đã bao gồm thuế GTGT 5%). Thời hạn thanh toán được chia ra thành 2 đợt: Đợt Công ty NK chỉ mới thanh toán đợt 1 là 50% giá trị hợp đồng, tương đương với 1.168.000.000 đồng. Số tiền này là hoàn toàn của ông Kevin Hoàng. Sau khi đã giao 50% giá trị hợp đồng vì sự kiện “Đường lưỡi bò” của Trung Quốc không cho phép chiếu phim “Võ Tắc Thiên” và Công ty NK bị lỗ.

Ngày 25/12/2016, Công ty NK tiếp tục kí hợp đồng cấp quyền sử dụng phim truyền hình số 2512/NĐKT/NK-ĐT/2016 với Công ty cổ phần truyền thông NK Central (viết tắt là Công ty NKC). Công ty NKC đã tiến hành phát các tập phim trên đài truyền hình đồng tháp và hợp đồng kí là 1.500.000.000 đồng thu được từ tiền quảng cáo trong thời gian phát phim. Tuy nhiên trong thời gian phát phim, do Công ty NK chưa trả hết 50% số tiền còn lại cho Công ty T, nên Công ty T đã gây nhiều khó khăn khiến cho việc phát sóng phim bị hạn chế không thu đươc lợi nhuận. Thậm chí Công ty NK bị Công ty NKC yêu cầu bồi thường thiệt hại theo thỏa thuận theo phụ lục hợp đồng ngày 13/4/2017. Theo đó, Công ty NK phải bồi thường cho Công ty NKC 910.200.000 đồng. Hiện nay, theo báo cáo tài chính của công ty thì sau đợt chiếu phim Võ Tắc Thiên Công ty NK không còn hoạt động nữa.

Quan điểm của Công ty NK do đây là việc thỏa thuận hợp tác làm ăn và việc kinh doanh không có lợi nhuận nên Công ty NK không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Kevin Hoàng. Trong quá trình gặp khó khăn về kinh doanh, bà Phạm Hồng N đã có thông báo cho ông Phạm Kevin H về sự kiện đường lưỡi bò có ảnh hưởng đến sự công chiếu của bộ phim. Tuy nhiên, sau khi bà Phạm Hồng N thôi làm giám đốc thì Công ty không thể thông báo cho ông Phạm Kevin H vì không biết ông là người góp vốn hợp tác kinh doanh vì các bên không có ký kết hợp đồng bằng văn bản.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Hoàng K: Tại văn bản xác nhận ngày 10/5/2018 ông Nguyễn Hoàng K trình bày ông là anh vợ của nguyên đơn, ông Kevin Hoàng có nhờ ông chuyển khoản vào tài khoản của bà Phạm Hồng N với 02 lần chuyển khoản như sau: Chuyển khoản cho bà Phạm Hồng N vào tài khoản 711A45209337 tại ngân hàng TMCP công thương Việt Nam- Chi nhánh 9 – TP.HCM ngày 2/3/2016 với số tiền là 100.000.000 đồng chuyển từ tài khoản ngân hàng Vietcombank với nội dung “Khánh chuyển khoản”.

Chuyển cho Công ty NK 03 lần vào tài khoản số 140414851035250 của công ty TNHH truyền thông NK tại ngân hàng TMCP XNK Việt Nam (Eximbank), với tổng số tiền là 1.900.000.000 đồng.

Đi với yêu cầu khởi kiện của của ông Phạm Kevin H buộc bà Phạm Hồng N và Công ty NK hoàn trả số tiền 2.100.000.000 đồng là có cơ sở, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H tại bản tự khai ngày 04/6/2020 trình bày: Ông là ba vợ của ông Kevin Hoàng. Ông Phạm Kevin H có nhờ ông chuyển vào tài khoản của bà Phạm Hồng N số tài khoản 711A45209337 tại ngân hàng TMCP Công Thương Việt nam ngày 02/3/2016 với số tiền là 100.000.000 đồng từ tài khoản Vietcombank của ông. Nội dung: “Khánh chuyển khoản”.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1610/2020/DSST ngày 24/9/2020, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37 và điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 2 Điều 227 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 214, Điều 216, Điều 234, Điều 668, Điều 690 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Kevin H. Buộc Công ty TNHH truyền thông NK phải trả cho ông Phạm Kevin H số tiền 667.000.000 (Sáu trăm sáu mươi bảy triệu) đồng. Thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật theo sự giám sát của cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên chậm trả còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Kevin H về việc buộc bà Phạm Hồng N phải trả 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng khác, án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 01 tháng 10 năm 2020 nguyên đơn làm đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 07 tháng 10 năm 2020 bị đơn là Công ty TNHH Truyền thông NK làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, không đồng ý trả cho ông Phạm Kevin H 606.800.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người kháng cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án:

Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Ông Phạm Kevin H có chuyển cho bà Phạm Hồng N 200.000.000 đồng, bà Phạm Hồng N thừa nhận có nhận số tiền trên, ông Phạm Kevin H khai số tiền trên hỗ trợ bà Phạm Hồng N thành lập Công ty, nên việc Tòa sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu ông Phạm Kevin H là đúng. Đối với số tiền 1,9 tỷ đồng Công ty NK đã nhận của ông Phạm Kevin H là khoản tiền góp vốn mua phim Võ Tắc Thiên, khi hùn vốn không xác định rõ quyền và nghĩa vụ các bên trong việc phân chia lợi nhuận hay thiệt hại, nên không chấp nhận yêu cầu ông Phạm Kevin H đòi lại số tiền đã hùn. Cấp sơ thẩm chỉ buộc Công ty NK trả lại cho ông Phạm Kevin H 667.000.000 đồng là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Kevin H cũng như kháng cáo của Công ty TNHH truyền thông NK. Giữ y bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ, lời khai của các bên đương sự, quan điểm luật sư và đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy:

[1] Về khoản tiền 200.000.000 đồng. Ông Phạm Kevin H khai ông chuyển 200 triệu đồng cho bà Phạm Hồng N là góp vốn vào thành lập Công ty NK, bà Phạm Hồng N khai số tiền 200 triệu đồng là ông Phạm Kevin H hỗ trợ cho bà. Thực tế cho thấy bà Phạm Hồng N có nhận 200 triệu đồng của ông Phạm Kevin H, khoản tiền trên không có tài liệu chứng minh hỗ trợ hay hùn vốn nên việc Tòa sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Kevin H là không có căn cứ mà cần buộc bà Phạm Hồng N trả lại số tiền trên cho ông Phạm Kevin H.

[2] Đối với khoản tiền 1,9 tỷ đồng: Ông Phạm Kevin H khai đây là khoản tiền ông góp vốn vào Công ty NK để hùn vốn mua phim Võ Tắc Thiên nhưng không có biên bản thỏa thuận, hợp đồng góp vốn, chỉ thỏa thuận bằng lời nói mỗi bên góp 50%. Phía Công ty NK không thừa nhận ông Phạm Kevin H có góp vốn nếu có thì đó là việc cá nhân của ông Phạm Kevin H với bà Phạm Hồng N. Căn cứ các chứng cứ có tại hồ sơ cho thấy ông Phạm Kevin H có chuyển 1,9 tỷ đồng tài khoản Công ty NK và Công ty NK đã sử dụng số tiền 1.233.000.000 đồng trong tổng số tiền 1,9 tỷ đồng của ông Phạm Kevin H để mua phim Võ Tắc Thiên với Công ty T. Tuy không có biên bản thỏa thuận hay hợp đồng góp vốn giữa ông Kevin Hoàng với Công ty NK, nhưng Công ty NK có sử dụng số tiền ông Phạm Kevin H chuyển vào và sử dụng pháp nhân là Công ty NK để ký hợp đồng mua phim từ đó có căn cứ kết luận Công ty NK và ông Kevin Hoàng có hợp tác mua phim Võ Tắc Thiên, nguyên tắc trong hợp tác có lãi cùng chia, lỗ cùng chịu. Việc Tòa sơ thẩm buộc ông Phạm Kevin H phải chịu toàn bộ khoản lỗ là không đúng.

Để có căn cứ buộc Công ty NK cùng liên đới chịu trách nhiệm khoản lỗ do mua phim Võ Tắc Thiên là 1.233.000.000 đồng hay 1.517.000.000 đồng (như Công ty NK trình bày) cần phải được điều tra làm rõ. Do đó cần phải hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để cấp sơ thẩm điều tra xét xử lại theo quy định.

Từ phân tích trên chấp nhận một phần yêu cầu của ông Phạm Kevin H và Công ty NK, hủy toàn bộ bản án sơ thẩm giao về Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung.

[3] Do hủy bản án sơ thẩm nên người kháng cáo ông Phạm Kevin H và Công ty TNHH Truyền thông NK không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Hy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 1610/2020/DSST ngày 24/9/2020 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án về cho Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo quy định.

- Án phí dân sự phúc thẩm:

Ông Phạm Kevin H và Công ty TNHH Truyền thông NK không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm; mỗi đương sự được hoàn lại số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm ông Phạm Kevin H; Công ty TNHH Truyền thông NK đã nộp theo các Biên lai thu số 0092822 ngày 16/10/2020; số 0092812 ngày 15/10/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về đòi tài sản và tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh số 63/2022/DS-PT

Số hiệu:63/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về