Bản án về đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất số 246/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 246/2022/DS-PT NGÀY 13/12/2022 VỀ ĐÒI LẠI QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU THÁO DỠ TÀI SẢN TRÊN ĐẤT

Ngày 13 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 155/2022/TLPT-DS ngày 01 tháng 10 năm 2022 về “Đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 13/2022/DS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 300/2022/QĐ-PT ngày 22 tháng 11 năm 2022; giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1967, bà Dương Thị T, sinh năm 1969. Có mặt.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Dương Thị T: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1967. Có mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn D A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B: Chị Phạm Thị Hồng U, sinh năm 1997. Địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Bùi Phú T, Công ty Luật TNHH P - Chi nhánh Quảng Ngãi thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh; Địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

* Bị đơn: Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1939. Địa chỉ: Thôn Tây A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1971; Địa chỉ: thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1- Chị Nguyễn Thị Phương T, sinh năm 1990; Vắng.

2- Anh Nguyễn Văn Thái V, sinh năm 1992; Vắng.

3- Chị Nguyễn Thị Thái Y, sinh năm 1994; Vắng.

4- Chị Nguyễn Thị Thái M, sinh năm 1996; Vắng.

5- Chị Nguyễn Thị Phương T, sinh năm 1988. Vắng.

Cùng địa chỉ: Thôn D A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi 6- Ông Phùng Văn C, sinh năm 1963, bà Dương Thị N, sinh năm 1966. Địa chỉ: Thôn Tây A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

7- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1953; Vắng.

8- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm: 1960; Vắng.

9- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1961; Vắng.

10- Bà Nguyễn Thị Q, sinh năm: 1972; Vắng.

11- Ông Nguyễn Văn N, sinh năm: 1973; Có mặt.

12- Bà Nguyễn Thị B, sinh năm: 1975; Vắng.

13- Ông Nguyễn Văn Tiến, sinh năm: 1977; Vắng.

Cùng địa chỉ: Thôn D A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.

14- Ông Nguyễn Bá V, sinh năm: 1964, địa chỉ: tỉnh Tây Ninh. Vắng.

15- Bà Nguyễn Thị B, sinh năm: 1932, địa chỉ: Thôn D A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng.

16- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1941; Vắng.

17- Ông Đinh Thành Đ, sinh năm: 1976; Vắng.

Cùng địa chỉ: Thôn Tây A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.

18- Ông Nguyễn Văn L, sinh năm: 1949; Vắng.

19- Ông Nguyễn Văn N. Vắng.

Cùng địa chỉ: Thôn D A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.

20- Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1951; địa chỉ: tỉnh Đồng Nai. Vắng.

21- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1981, địa chỉ: Thôn D A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Có mặt.

Vắng.

22- Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Ngãi, địa chỉ: tỉnh Quảng Ngãi.

23- Ban Chỉ huy Quân sự huyện L, địa chỉ: Khu dân cư thôn D A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng.

24- Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Quảng Ngãi, địa chỉ: Thôn Đ, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Vắng.

Người kháng cáo: ông Nguyễn Văn K.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, các bản trình bày và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T trình bày:

Nguyên các thửa đất số 216, 240 cùng tờ bản đồ số 21 tại Đ, Thôn D, xã A (nay là Thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi (sau đây gọi tắt là thửa 216 và thửa 240) là của ông bà nội ông là cụ Nguyễn L và cụ Dương Thị N (đều đã chết) tạo lập, sau đó để lại cho cha, mẹ ông là ông Nguyễn K (chết 1992) và bà Nguyễn Thị T (chết 2014) trực tiếp quản lý, sử dụng. Quá trình chung sống, cha mẹ ông có tất cả 11 người con (02 người đã chết lúc nhỏ) hiện còn 09 người gồm: Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị Q, Nguyễn Văn N, Nguyễn Thị B, Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Bá V và Nguyễn Văn B.

Tha đất số 216 có giới cận: Bắc giáp mương nước, Nam giáp đường liên xã, D giáp đất ông Nguyễn Văn K và Tây giáp đất ông Phùng Văn C; Thửa đất số 240 có giới cận: Bắc giáp đất của Ban Chỉ huy Quân sự (BCHQS) huyện L, Nam giáp mương nước, D giáp đất ông Nguyễn Văn K và Tây giáp đất ông Phùng Văn C. Quá trình sử dụng, Nhà nước không có chủ trương đăng ký, kê khai nên cha mẹ ông không đăng ký, kê khai việc sử dụng đất với Nhà nước. Năm 1992, ông Nguyễn K chết không để lại di chúc, bà Nguyễn Thị T tiếp tục quản lý, sử dụng hai thửa đất nêu trên. Năm 2004, Nhà nước có chủ trương thu hồi đất để xây dựng nhà khách BCHQS huyện L nên mẹ ông đã bàn giao toàn bộ diện tích đất tại 02 thửa đất nêu trên cho quân đội. Lúc đó, phía quân đội có đền bù về cây trồng trên đất cho mẹ ông với số tiền 3.840.000 đồng nhưng không đền bù về đất với lý do đất đã được quy hoạch vào mục đích quốc phòng. Tuy nhiên, sau khi xây dựng Nhà khách xong, quân đội không có nhu cầu sử dụng đối với các thửa đất của mẹ ông nên đã giao trả lại đất và yêu cầu gia đình ông hoàn trả lại số tiền đền bù về cây trồng đã nhận. Tại thời điểm Nhà nước thực hiện xây dựng nhà khách quân đội thì diện tích khu đất bị thu hồi bao nhiêu ông không rõ nhưng gồm có đất của ông Trương M, ông Nguyễn Văn K, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T (nay do ông Phùng Văn C thừa hưởng) và ông Trương H.

Năm 2013, vợ chồng ông được sự thống nhất của mẹ và các anh, chị em trong gia đình, đã giao thửa đất lại cho vợ chồng ông được quản lý, sử dụng. Sau đó, vợ chồng ông đã đăng ký kê khai và được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) tại thửa đất số 216, tờ bản đồ số 21, diện tích 479,9m² và thửa đất số 240 tờ bản đồ số 21 có diện tích 161,3m² ở đồng H, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Tại thời điểm vợ chồng ông kê khai, đăng ký và được cấp GCNQSDĐ thì trên 02 thửa đất số 216 và 240 đều không có tài sản nào của ông Nguyễn Văn K và khi đó giữa gia đình ông với ông Nguyễn Văn K cũng không có tranh chấp.

Gia gia đình ông với ông Nguyễn Văn K bắt đầu tranh chấp từ năm 2015 khi ông K tự ý chặt đốn cây dương liễu có trên đất bán cho người khác và xây dựng chuồng bò trên đất của ông. Ông đã yêu cầu ông K tháo dỡ và có báo cáo chính quyền địa phương xuống hiện trường lập biên bản; UBND xã A lúc đó đã yêu cầu ông K chấm dứt việc xây dựng trái phép nhưng sau đó, ông K vẫn lén lút xây dựng, cải tạo chuồng bò, chuồng gà, nhà tạm và quán nước mía như hiện nay. Như vậy, ông K chiếm đất sử dụng hai thửa đất nêu trên từ năm 2014.

Khi UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình ông thì chính quyền có xuống hiện trường để đo đạc, chỉ ranh, mốc giới với các hộ liền kề, khi đó có ông, ông Phùng Văn C và ông Nguyễn Văn K có mặt chỉ ranh giới đất.

Năm 2019, cây dừa, dương liễu trên đất của ông có khả năng bị bão sẽ làm ngã đổ vào đường dây điện thì Điện lực L có hỗ trợ cho ông số tiền 1.000.000 đồng để tỉa nhánh cây. Trước kia, trên đất có nhiều cây dừa, dương liễu nhưng nay chỉ còn lại một ít do quá trình ở đây, ông K đã chặt phá và một số cây bị ngã, đổ do mưa bão, ngoài ra, ông cũng có đốn một ít để làm củi.

Nay, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Văn K phải giao trả lại cho hộ gia đình ông quyền sử dụng các thửa đất số 216, 240 cùng tờ bản đồ số 21 tại xã A, huyện L cùng số cây trồng trên các thửa đất gồm cây dừa, cây dương liễu có trên đất; tháo dỡ chuồng bò, chuồng gà, nhà tạm và quán nước mía do ông K xây dựng trái phép trên các thửa đất trên.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Văn K trình bày:

Ngun gốc các thửa đất số 216, 240 là một phần thửa đất số 1094 tờ bản đồ số 3, diện tích 1.600m2 tại xã A, huyện L (sau đây gọi là thửa 1094) là do ông, bà, cha mẹ để lại cho ông K sử dụng từ trước đến nay. Năm 1994, ông có làm một ngôi nhà và lò bánh mì trên hai thửa đất này nhưng không ai tranh chấp, đồng thời ông có làm chuồng bò, chuồng vịt, trại bán nước và trồng thêm một số cây trồng như chuối, dừa và dương liễu. Năm 2004, UBND xã A và BCHQS huyện L có mời ông đến để giải quyết đền bù về cây cối, hoa màu trên đất để giao đất cho quân đội xây dựng công trình quốc phòng. Ngoài ông ra, còn có các hộ gia đình khác như hộ ông Trương H, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T và ông Trương M. Tại thời điểm đó, 04 hộ dân nêu trên đồng ý nhận tiền bồi thường, riêng ông không đồng ý nhận tiền bồi thường cây cối, hoa màu trên đất vì giá bồi thường quá thấp. Diện tích đất này ông đã sử dụng ổn định mấy chục năm không có tranh chấp; khi Nhà nước xây dựng đường ống nước và đường dây diện đi qua khu đất do ông quản lý đều mời ông lên nhận tiền bồi thường, hỗ trợ nên việc ông B, bà T khởi kiện yêu cầu ông trả lại đất là không có cơ sở nên ông không đồng ý.

Năm 2015, khi Tòa án nhân dân huyện L mời ông lên làm việc tranh chấp đất đai với ông Nguyễn Văn B thì ông mới biết hộ ông Nguyễn Văn B đã được Nhà nước cấp GCNQSDĐ đối với hai thửa đất nêu trên. Việc UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn B là trái pháp luật, do đó, ông yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BO 513180, số vào sổ GCH: CH07433 do UBND huyện L cấp ngày 24/12/2013 cho hộ ông Nguyễn Văn B đối với thửa đất số 216, tờ bản đồ số 21 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất BO 513181, số vào sổ GCH: CH07434 do UBND huyện L cấp ngày 24/12/2013 cho hộ ông Nguyễn Văn B tại thửa đất số 240, tờ bản đồ số 21.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Chị Nguyễn Thị Phương T, anh Nguyễn Văn Thái V, chị Nguyễn Thị Thái Y, chị Nguyễn Thị Thái M, chị Nguyễn Thị Phương T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị Q, bà Nguyễn Thị B, ông Nguyễn Văn N, ông Nguyễn Văn Tiến và ông Nguyễn Bá V thống nhất với ý kiến trình bày của nguyên đơn.

* Tại Văn bản trình bày ý kiến cùng đề ngày 27/6/2021, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm các ông, bà: Nguyễn Thị N, Nguyễn Thị B, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn N và Đinh Thành Đ (con bà Nguyễn Thị B) thống nhất với ý kiến trình bày của bị đơn.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phùng Văn C trình bày:

Gia ông với ông Nguyễn Văn B, ông Nguyễn Văn K không có quan hệ bà con, họ hàng. Ông là chủ sử dụng thửa đất liền kề với thửa đất mà ông Nguyễn Văn B, ông Nguyễn Văn K đang tranh chấp. Hiện nay, ông đang sử dụng hai thửa đất là thửa 243, diện tích 140,7m2 và thửa 248, diện tích 379,8m2 cùng tờ bản đồ số 21 ở xã A, huyện L, đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho vợ chồng ông là Phùng Văn C, Dương Thị N vào ngày 10/4/2017.

Nguyên nguồn gốc hai thửa đất nêu trên là do ông, bà ngoại ông là Nguyễn N cùng họ tộc để lại cho mẹ ông là bà Nguyễn Thị T và anh con cậu ruột là ông Nguyễn Văn H theo “Tờ chia phần thực” ngày 24 tháng 10 năm Nhâm Tý. Sau đó, ông H và mẹ ông thỏa thuận đổi đất cho nhau để tiện quản lý, sử dụng. Khi già yếu, mẹ ông để lại thửa đất cho ông quản lý, sử dụng và đăng ký kê khai, được Nhà nước cấp GCNQSDĐ năm 2017. Phía D hai thửa đất của ông hiện nay có 03 cây dừa làm ranh giới giữa đất của ông với đất của ông Nguyễn Văn B, trong đó, có 02 cây nằm trên thửa 248 và 01 cây nằm trên thửa 243.

Tại thời điểm trước khi đo đạc theo dự án VLAP năm 2010, theo bản đồ giải thửa 299/TTg của xã A thì thửa đất mang số hiệu 1094, tờ bản đồ số 3. Khi đó có những người canh tác từ D sang Tây bao gồm: Ông Trương M, ông Nguyễn Văn K, bà Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị T, ông Trương H và ông Mai Cựu.

Theo ông được biết, nguồn gốc hai thửa đất 216, 240 là của ông Nguyễn K, bà Nguyễn Thị T để lại cho ông Nguyễn Văn B sử dụng. Năm 2004, Nhà nước quy hoạch thực hiện dự án xây dựng nhà khách của Ban CHQS huyện L có bồi thường cây cối, tài sản trên đất cho các hộ nêu trên.

* Tại Bản trình bày ngày 02/4/2020, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ủy ban nhân dân huyện L trình bày:

Ngày 20/02/2004, UBND tỉnh Quảng Ngãi có Công văn số 277/UBND về việc thỏa thuận địa điểm cho Bộ CHQS tỉnh Quảng Ngãi xây dựng công trình quốc phòng với diện tích 3.400m2 tại thửa 1094 (bản đồ giải thửa 299). Theo đó, đề nghị Bộ CHQS tỉnh thực hiện các thu tục như: khảo sát, đo đạc địa hình; lập dự án đầu tư và phương án bồi thường về đất đai và tài sản trên đất cho người sử dụng đất hợp pháp bị thu hồi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để làm cơ sở lập thủ tục thu hồi giao đất thực hiện công trình quốc phòng.

Trong diện tích 3.400m2 tại thửa 1094 thì hiện trạng lúc này có 05 hộ dân đang sử dụng là Trương M, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị T, Nguyễn Văn K và Trương H. Sau khi được UBND tỉnh thỏa thuận địa điểm, Bộ CHQS tỉnh đã bồi thường cây cối, hòa màu trên đất; khi chi trả tiền bồi thường thì chỉ có 04 hộ nhận, trừ hộ ông Nguyễn Văn K là không nhận tiền. Tuy nhiên, sau đó, Bộ CHQS tỉnh cũng không thực hiện thủ tục thu hồi, giao đất theo quy định nên các hộ này vẫn tiếp tục sử dụng.

Đến năm 2010, thực hiện Dự án VLAP đo đạc lại bản đồ địa chính, kê khai đăng ký cấp GCNQSDĐ thì hộ ông B không lập thủ tục đề nghị cấp GCNQSDĐ. Năm 2013, thực hiện Quyết định số 245/QĐ-UBND của UBND tỉnh Quảng Ngãi, UBND huyện L đã chỉ đạo các phòng chuyên môn của huyện, UBND các xã, trong đó, có xã A thực hiện hoàn thành công tác cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân. Khi đó, ngày 13/11/2013, hộ ông B đã làm đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ. Hồ sơ cấp GCNQSDĐ của hộ ông Nguyễn Văn B đã được Hội đồng tư vấn xã xét duyệt thống nhất đề nghị cấp GCNQSDĐ (có biên bản xét duyệt ngày 12/11/2013), cũng trong ngày 12/11/2013, UBND xã A đã thực hiện niêm yết công khai kết quả xét duyệt hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận, sau 15 ngày công khai hồ sơ, UBND xã không nhận được bất kỳ đơn tranh chấp, khiếu nại gì về các trường hợp đủ điều kiện cấp GCNQSDĐ. Ngày 29/11/2013, UBND xã A xác nhận sử dụng đúng hiện trạng, đất có nguồn gốc sử dụng ổn định trước ngày 15/10/1993, không có tranh chấp vào đơn đề nghị cấp GCNQSDĐ của hộ ông B tại thửa 216, 240 cùng tờ bản đồ số 21 tại xã A, đồng thời làm thủ tục trình lên UBND huyện phê duyệt cấp GCNQSDĐ.

Trên cơ sở đề nghị của UBND xã A, ngày 19/12/2013, Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Quảng Ngãi – Chi nhánh L có Tờ trình số 22/TTr-VPĐK để Phòng Tài nguyên và Môi trường trình UBND huyện phê duyệt cấp GCNQSDĐ.

Qua đó thấy rằng, việc UBND huyện L cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Văn B tại thửa đất số 216, diện tích 479,9m² và thửa đất số 240, diện tích 161,3m², cùng tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi cùng ngày 24/12/2013 là đúng theo trình tự, thủ tục luật định. Do đó, việc ông Nguyễn Văn K yêu cầu Tòa án tuyên hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên là không có căn cứ nên đề nghị Tòa án không chấp nhận.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Quảng Ngãi và Ban Chỉ huy Quân sự huyện L không có ý kiến trình bày.

Ti Bản án sơ thẩm số 13/2022/DSST ngày 11 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã tuyên xử:

Căn cứ vào các Điều: 26, 34, 37, 147, 157, 158, 165, 166, khoản 1 Điều 227, Điều 266, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Điều 166 Luật đất đai năm 2013; Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T.

1.1. Buộc ông Nguyễn Văn K phải trả lại cho ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T thửa đất số 216, diện tích 479,9m² và thửa đất số 240, diện tích 161,3m², cùng tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Giới cận, kích thước và diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 216 và thửa đất số 240 cùng tờ bản đồ số 21 do UBND huyện L cấp cho hộ ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T cùng ngày 24/12/2013 (Có trích lục thửa đất kèm theo).

1. 2. Buộc ông Nguyễn Văn K phải tháo dỡ các tài sản có trên thửa đất số 216 và thửa 240, tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi bao gồm: 01 quán nước mía trụ bê tông, xà gồ thép, mái lợp tol nền xi măng bê tông có diện tích 30,7m2 (phần diện tích nằm trên thửa đất số 216, có ký hiệu t); 01 chuồng bò trụ bê tông, mái lợp tol, nền đất có diện tích 24,3m2 (có ký hiệu t2); 01 phần chuồng nuôi gà (vịt) trụ bê tông lưới B40, nền đất diện tích 36,2m2 (phần diện tích nằm trên thửa đất số 216, có ký hiệu A);

mt phần nhà tạm tường xây gạch, xà gồ sắt, mái lợp tol, nền lát gạch, diện tích 9,7m2 (phần diện tích nằm trên thửa đất số 216, có ký hiệu g). Buộc ông Nguyễn Văn K khai thác, đốn chặt 01 cây Gòn, 01 cây cây Bơ, 01 cây Khế, 01 cây Mãng cầu, các bụi chuối và thu hoạch hoa màu có trên thửa đất số 216 và thửa 240 tờ bản đồ số 21 A, huyện L. (Có sơ đồ bản vẽ kèm theo).

1.3. Giao cho ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T được sở hữu, sử dụng tất cả các cây Dừa và Dương liễu (Phi lao) nằm trên thửa đất số 216 và thửa 240, cùng tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.

2. Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn ông Nguyễn Văn K về việc yêu cầu Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 216, diện tích 479,9m² và thửa đất số 240, diện tích 161,3m², cùng tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi do Ủy ban nhân dân huyện L cấp cho hộ ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T cùng ngày 24/12/2013.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và thi hành án theo quy định của pháp luật.

- Ngày 18/7/2022, ông Nguyễn Văn K kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu của ông.

Tại phiên tòa Đại diên Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn K; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận; Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn K; nhận thấy:

[1.1]. Theo Công Văn số 1351/UBND ngày 29/5/2020 của UBND huyện L (BL 404-405) và Công văn số 66/UBND ngày 27/7/2018 (BL 247); xác định: Nguồn gốc các thửa đất số 216, tờ bản đồ số 21, diện tích 479,9m² và thửa đất số 240, tờ bản đồ số 21, diện tích 161,3m² tại thôn D, xã A (nay là thôn D A) huyện L, theo bản đồ giải thửa 299/TTg là một phần của thửa đất 1094, tờ bản đồ số 3, diện tích 4.100m2, loại đất Q (cây ăn quả lâu năm), không thể hiện chủ sử dụng đăng ký, kê khai. Trên thửa đất 1094, tờ bản đồ số 3 (theo bản đồ giải thửa 299/TTg) trước đây có 05 hộ gia đình và 01 tổ chức sử dụng trước năm 1993;

gồm các hộ: ông Phạm Đình Tú, Trương H, Nguyễn Thị Nhượng, Nguyễn Thị T (mẹ ruột ông B) và hộ Nguyễn Kiệm; ranh giới các hộ không có mốc giới, chỉ thống nhất tính hàng dừa giữa các bên, không xác định được diện tích cụ thể của từng hộ sử dụng.

Năm 2004, UBND tỉnh Quảng Ngãi có Văn bản số 277/UB ngày 20/02/2004 về việc thỏa thuận địa điểm xây dựng công trình Quốc phòng làm Nhà khách Ban chỉ huy quân sự huyện L với diện tích 3.400m2 ti thửa đất số 1094, tờ bản đồ số 03, xã A, huyện L. Trên diện tích này có 05 hộ đang sử dụng, gồm: Trương M, Nguyễn Văn K, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị T và Trương H. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh đã lập danh sách các hộ đang sử dụng và bồi thường về cây cối, hoa màu trên đất, không bồi thường về đất. Tuy nhiên sau đó, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh chỉ sử dụng một phần diện tích để xây dựng nhà khách, số diện tích còn lại không sử dụng nên không thu hồi, các hộ gia đình nêu trên vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng.

Năm 2010 thực hiện Dự án Vlap đo đạc lại bản đồ địa chính trên địa bàn xã A các hộ trên xác định ranh giới cũ, đo đạc, phân chia theo bản đồ địa chính (bản đồ năm 2010), cụ thể từng hộ như sau:

- Hộ ông Nguyễn Văn K sử dụng thửa 238, diện tích 152,1m2 và thửa 237, diện tích 445,4m2 thuc tờ bản đồ số 21.

- Hộ ông Nguyễn Văn B sử dụng thửa 216, diện tích 479,9m2 và thửa 240, diện tích 161,3m2 thuc tờ bản đồ số 21.

[1.2]. Theo Biên bản làm việc xác minh của TAND huyện L với UBND xã A ngày 06/3/2018 (BL 140), Công văn số 108/UBND ngày 16/01/2018 của UBND huyện L (BL 134-135), Báo cáo số 66/BC-TNMT ngày 25/3/2015 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L (BL 247) và Công văn số 826/UBND ngày 04/6/2015 của UBND huyện L (BL 85 đến 87) xác định: nguồn gốc thửa đất 240 và 216, tờ bản đồ số 21 nêu trên là của ông bà nội của ông Nguyễn Văn B là cụ Nguyễn L, Dương Thị N đã sử dụng trước năm 1975, sau đó giao lại cho cha mẹ ông Nguyễn Văn B là ông Nguyễn K, bà Nguyễn Thị T tiếp tục sử dụng. Năm 1992 ông K chết, bà T canh tác, sử dụng và giao lại cho ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T sử dụng, lúc này trên đất có các loại cây lâu năm như dừa, dương liễu (phi lao) do bà T trồng. Năm 2013, ông Nguyễn Văn B đăng ký kê khai và được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Nguyễn Văn B và bà Dương Thị T tại thửa đất số 216, diện tích 479,9m² và thửa đất số 240, diện tích 161,3m², cùng tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi cùng ngày 24/12/2013. Hồ sơ xét duyệt hộ ông Nguyễn Văn B cùng 48 hộ gia đình khác được được UBND xã A niêm yết công khai, nhưng không có ai khiếu nại. (BL 125-126).

[1.3]. Năm 2014, bà Nguyễn Thị T chết, ông Nguyễn Văn B không canh tác nên ông Nguyễn Văn K là người có đất liền kề đã xây dựng chuồng bò và một trại tạm bán nước mía, canh tác hoa màu trên hai thửa đất nêu trên nên xảy ra tranh chấp với ông B. Tại Biên bản hòa giải ngày 30/10/2014 do UBND xã A thực hiện, ông Nguyễn Văn K trình bày: “Tôi công nhận các ông Nguyễn Văn B, Phùng Văn C, Trương H có đất liền kề cận ranh giới đất của tôi, có cây trồng trên đất của các chủ đất kề liền là cây chuối, cây dừa, nếu xác định mốc ranh giới theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Nhà nước giao quyền thì có quyền sử dụng” (BL 567-568). Như vậy, tại biên bản hòa giải này, ông Nguyễn Văn K đã thừa nhận quyền sử dụng đất của hộ ông Nguyễn Văn B theo như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp.

[1.4]. Đồng thời, theo lời khai của những người làm chứng có đất lân cận giáp với thửa đất 216 và 240 của hộ ông Nguyễn Văn B là các ông: Trương H, Phùng Văn C, ông Dương Nhựt (rể bà Nguyễn Thị T) và các ông, bà: Dương N, Nguyễn Tồn, Mai Thị N, Dương Tấn Phúc, Nguyễn Văn Thống… đều xác định trước đây ông Nguyễn K, bà Nguyễn Thị T có canh tác, sử dụng các thửa đất này để trồng hoa màu và cây lâu năm, sau đó để lại cho con trai là Nguyễn Văn B quản lý, sử dụng.

[2]. Đối với ông Nguyễn Văn K cho rằng thửa đất số 240 và 216, tờ bản đồ số 21, xã A, huyện L và thửa đất hiện ông đang quản lý, sử dụng có nguồn gốc do ông bà ông từ ba bốn đời trước để lại, có nguồn gốc là thửa số 1094, diện tích 1.600m2, ở xứ Đồng Nghệ, thôn D, xã A, huyện L. Ông K cung cấp chứng cứ là “Văn bản ủy quyền thừa kế” ngày 16/7/1998 của tộc họ để lại cho ông trọn quyền sử dụng đám đất hương hỏa là thửa 1094, tờ bản đồ số 3, diện tích 1.600m2, tọa lạc tại thôn Trung Hòa, xã A, huyện L (BL 49). Tuy nhiên, văn bản ủy quyền thừa kế này không có xác nhận của chính quyền địa phương. Mặt khác vào năm 1998 huyện L chỉ có xã L Hải, không có xã A (theo Quyết định số 50- HĐBT ngày 22/3/1984 của Hội đồng Bộ trưởng BL 372); đến năm 2003 xã L Hải mới đổi tên thành xã A (theo Nghị định số 145/2003/NĐ-CP ngày 01/12/2003 của Chính Phủ – BL 371) nhưng trong văn bản của ông K cung cấp được lập năm 1998 lại ghi địa chỉ thửa đất tại xã A là không phù hợp, nên không có giá trị pháp lý, không phải là chứng cứ chứng minh.

- Đối với những người làm chứng phía bị đơn gồm các ông: Nguyễn Văn Lựa, Nguyễn Thạnh, Trương Bản, Nguyễn Hạp, Nguyễn Văn Thành, Lê Thường đều xác nhận thửa đất 1094, tờ bản đồ số 3 xã A là của ông bà để lại cho ông Nguyễn Văn K quản lý, sử dụng từ trước năm 1975, trên đất ông K có trồng cây lâu năm và canh tác hoa màu. Tuy nhiên, không có tài liệu chứngcứ nào xác thực và cũng không phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong vụ án.

Từ những nhận định, phân tích trên, án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B và không chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Văn K là có căn cứ. Ông K kháng cáo nhưng không có tài liệu chứng cứ nào mới có thể làm thay đổi nội dung vụ án nên không có cơ sở chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn Văn K phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Tuy nhiên ông K là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí, nên miễn án phí phúc thẩm cho ông K.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn K; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều: 26, 34, 37, 147, 157, 158, 165, 166, khoản 1 Điều 227, Điều 266, 267, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 166 Luật đất đai năm 2013; Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T.

- Buộc ông Nguyễn Văn K phải trả lại cho ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T thửa đất số 216, diện tích 479,9m² và thửa đất số 240, diện tích 161,3m², cùng tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi. Giới cận, kích thước và diện tích theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 216 và thửa đất số 240 cùng tờ bản đồ số 21 do UBND huyện L cấp cho hộ ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T cùng ngày 24/12/2013 (Có trích lục thửa đất kèm theo).

- Buộc ông Nguyễn Văn K phải tháo dỡ các tài sản có trên thửa đất số 216 và thửa 240, tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi bao gồm: 01 quán nước mía trụ bê tông, xà gồ thép, mái lợp tôn nền xi măng bê tông có diện tích 30,7m2 (phần diện tích nằm trên thửa đất số 216, có ký hiệu t); 01 chuồng bò trụ bê tông, mái lợp tol, nền đất có diện tích 24,3m2 (có ký hiệu t2); 01 phần chuồng nuôi gà (vịt) trụ bê tông lưới B40, nền đất diện tích 36,2m2 (phần diện tích nằm trên thửa đất số 216, có ký hiệu A); một phần nhà tạm tường xây gạch, xà gồ sắt, mái lợp tol, nền lát gạch, diện tích 9,7m2 (phần diện tích nằm trên thửa đất số 216, có ký hiệu g). Buộc ông Nguyễn Văn K khai thác, đốn chặt 01 cây Gòn, 01 cây cây Bơ, 01 cây Khế, 01 cây Mãng cầu, các bụi chuối và thu hoạch hoa màu có trên thửa đất số 216 và thửa 240 tờ bản đồ số 21 A, huyện L. (Có sơ đồ địa chính đo vẽ ngày 13/4/2021 kèm theo).

- Giao cho ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T được sở hữu, sử dụng tất cả các cây Dừa và Dương liễu (Phi lao) nằm trên thửa đất số 216 và thửa 240, cùng tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.

- Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn ông Nguyễn Văn K về việc yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 216, diện tích 479,9m² và thửa đất số 240, diện tích 161,3m², cùng tờ bản đồ số 21 tại thôn D, xã A (nay là thôn D A), huyện L, tỉnh Quảng Ngãi do Ủy ban nhân dân huyện L cấp cho hộ ông Nguyễn Văn B, bà Dương Thị T cùng ngày 24/12/2013.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2022/DS-ST ngày 11/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

3. Về án phí phúc thẩm: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Nguyễn Văn K, vì là người cao tuổi.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về đòi lại quyền sử dụng đất và yêu cầu tháo dỡ tài sản trên đất số 246/2022/DS-PT

Số hiệu:246/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về