Bản án số 17/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN SỐ 17/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 366/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 609/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 642/2020/QĐST-DS ngày 16 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị Mỹ H, sinh năm 1990; ĐKHKTT: Tổ X, ấp V, xã VH, huyện An Phú, tỉnh An Giang; chỗ ở hiện nay: Tổ Y, ấp VI, xã VH, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Lương Văn C, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ X, ấp V, xã VH, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Tất cả đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của bà Phan Thị Mỹ H; trình bày của ông Lương Văn C; các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hôn nhân giữa bà Phan Thị Mỹ H và ông Lương Văn C là là do mai mối, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 09 ngày 01/02/2010.

Theo bà H, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, ông C thường tham gia cờ bạc, thường sử dụng lời lẽ xúc phạm, đã khuyên bảo nhiều lần nhưng không sửa đổi và hai người đã ly thân từ đầu năm 2020 đến nay. Do cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên bà H xin ly hôn với ông C.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, bà H và ông C có 02 (hai) con chung tên Lương Hữu Nhân, sinh ngày 19/8/2010 và Lương Ngọc Tường Lam, sinh ngày 04/8/2016. Hai con chung hiện sống cùng bà H. Bà H có nguyện vọng được nuôi 02 con chung sau ly hôn và yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi dạy con chung mỗi cháu là 1.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Theo ông C, trước đây ông có tham gia tệ nạn như bà H trình bày. Tuy nhiên ông đã sửa đổi, lo làm ăn, chăm lo cho gia đình. Ông C vẫn còn tình cảm với bà H nên xin được đoàn tụ. Nếu bà H không tha thứ và Tòa án xét xử cho ly hôn thì ông có nguyện vọng được nuôi 02 con chung và không yêu cầu bà H cấp dưỡng.

Tòa án đã tiến hành hòa giải, tại các biên bản hòa giải ngày 28/10/2020 và ngày 10/11/2020 thì bà H vẫn cương quyết xin ly hôn; yêu cầu được nuôi dạy cả 02 con chung sau ly hôn; yêu cầu ông C cấp dưỡng. Ông C không đồng ý ly hôn.

Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến của cháu Lương Hữu N: Theo biên bản ghi nhận ý kiến ngày 10/11/2020, cháu Nhân có nguyện vọng được chung sống với bà H khi ông C và bà H ly hôn.

Về tài liệu, chứng cứ:

Bà Phan Thị Mỹ H giao nộp: Bản sao sổ hộ khẩu tên Ngô Thị V; Trích lục kết hôn số 87/TLKH-BS ngày 16/6/2020 của Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa; Bản sao Giấy khai sinh Lương Hữu N và Lương Ngọc Tường L; bản sao Giấy chứng minh nhân dân mang tên Phan Thị Mỹ H.

Tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân và điều kiện nuôi con, theo Biên bản xác minh ngày 26/11/2020 bà Ngô Thị V (mẹ ông C) cho biết: Ông C đang sống cùng bà V, nhà chỉ có 02 mẹ con. Vợ chồng H, C thường ngày có cãi vả, nguyên nhân là do C hay tham gia cờ bạc. Khoảng tháng 5/2020 thì H dẫn cả 02 con bỏ đi. Bà V có khuyên bảo nhưng không thành, C hiện nay làm hồ mỗi ngày thu nhập khoảng 220.000 đồng; đất thì đã cố cho chị của C.

Tại phiên tòa, bà H thay đổi yêu cầu khởi kiện, bà H xin ly hôn, có nguyện vọng nuôi dạy 02 con chung sau ly hôn và rút lại yêu cầu cấp dưỡng. Theo bà H, bà hiện đang làm hộ lý, thu nhập 6.000.000 đồng/tháng; bà và các con hiện sống chung với cha mẹ, cha mẹ bà cũng có thu nhập khá và rất thương yêu các cháu. Bà H xác định bà nuôi dạy các cháu sẽ tốt hơn so với ông C.

Ông C đồng ý ly hôn với bà H. Tuy nhiên, ông C cũng có nguyện vọng nuôi dạy 02 con chung sau ly hôn và không yêu cầu bà H cấp dưỡng. Theo ông C, ông có 05 công đất ruộng, hàng ngày ông đi làm thêm thu nhập mỗi tháng trên 6.000.000 đồng. Ông C xác định ông nuôi dạy các cháu sẽ tốt hơn so với bà H.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi.

Về nội dung: Theo trình bày của bà H, ông C và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, có căn cứ xác định hôn nhân giữa bà H và ông C đã đến mức trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, tại Tòa thì bà H và ông C thuận tình ly hôn, nên đề nghị công nhận sự thuận tình ly hôn giữa các đương sự. Về điều kiện nuôi con, xét thấy cháu N có nguyện vọng sống chung với bà H; cháu L còn nhỏ và là nữ. Đồng thời các cháu hiện đang học tại Vĩnh Hòa, bà H và gia đình nuôi dạy tốt. Do đó đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà H. Về tài sản chung và nợ chung không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết: Hôn nhân giữa bà Phan Thị Mỹ H với ông Lương Văn C có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, thị xã Tân Châu, cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 09 ngày 01/02/2010. Ông Lương Văn C đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện sinh sống tại ấp V, xã VH, huyện An Phú, tỉnh An Giang, nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

[1.2] Tòa án đã tiến hành hòa giải theo đúng quy định tại các Điều 205, 209 Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng bà H vẫn cương quyết xin ly hôn, ông C không đồng ý ly hôn. Việc hòa giải đoàn tụ không thành, nên tiến hành xét xử.

[2] Về nội dung vụ án:

 [2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà H xác định nguyên nhân mâu thuẫn trong tình cảm là do bất đồng quan điểm sống, ông C thường tham gia tệ nạn cờ bạc, thường kiếm chuyện vô cớ. Gia đình hai bên có khuyên ngăn nhưng ông C không sửa đổi nên cả hai không còn sống chung từ đầu năm 2020 cho đến nay. Theo kết quả xác minh xác định được, trình bày của bà H là có căn cứ. Bản thân ông C cũng thừa nhận và tại phiên tòa đồng ý ly hôn. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn tình cảm giữa bà H và ông C đã đến mức trầm trọng, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà H và ông C là phù hợp quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, bà H và ông C có 02 (hai) con chung tên Lương Hữu N, sinh ngày 19/8/2010 và Lương Ngọc Tường L, sinh ngày 04/8/2016. Các con chung đang chung sống cùng bà H. Cháu N đang học lớp 5; cháu L đang học Mẫu giáo Trường B Vĩnh Hòa. Qua xác minh và trình bày của bà H, ông C tại phiên tòa, xác định ông C, bà H đều còn sống chung gia đình. Ông C sống cùng mẹ già đã trên 70 tuổi, có 05 công đất ruộng nhưng cũng đã cho thuê, hiện ông đi làm hồ công việc cũng bấp bênh; bà H có việc làm ổn định, sống cùng cha, mẹ và tất cả đều làm có thu nhập, có điều kiện nuôi cháu N, cháu L ăn học tốt. Ngoài ra, cháu N có nguyện vọng được sống cùng bà H khi bà H, ông C ly hôn; cháu L còn nhỏ và là nữ cần sự chăm sóc của mẹ. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, xét nên để bà H tiếp tục nuôi dạy 02 con chung có thể đảm bảo việc học hành, tâm sinh lý, sự phát triển bình thường của các cháu.

 [2.3] Do bà H rút lại yêu cầu cấp dưỡng, nên đình chỉ yêu cầu này. Ông C không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà H và ông C xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[3] Về chi phí tố tụng:

Về án phí, bà H là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm; ông C không phải chịu án phí.

Các đương sự không phải chịu các chi phí tố tụng khác.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 55, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ các điều 217, 147, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 3 Điều 18; điểm a khoản 4 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Phan Thị Mỹ H, 

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Phan Thị Mỹ H với ông Lương Văn C.

2. Về con chung: Bà Phan Thị Mỹ H được trực tiếp nuôi dạy 02 (hai) con chung tên Lương Hữu N, sinh ngày 19/8/2010 và Lương Ngọc Tường L, sinh ngày 04/8/2016.

3. Về yêu cầu cấp dưỡng: Đình chỉ yêu cầu cấp dưỡng của bà Phan Thị Mỹ H, ông C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Lương Văn C và các thành viên trong gia đình phải tôn trọng quyền được trực tiếp nuôi con của bà Phan Thị Mỹ H. Ngược lại, bà Phan Thị Mỹ H và các thành viên trong gia đình phải tôn trọng quyền được thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung của ông Lương Văn C.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

4. Về chi phí t tụng: Bà Phan Thị Mỹ H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Phú theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2019/0004809 ngày 05/10/2020. (Bà H đã nộp đủ).

Ông Lương Văn C không phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Các đương sự không phải chịu chi phí tố tụng khác.

5. Về quyền kháng cáo: Án tuyên công khai có mặt bà Phan Thị Mỹ H và ông Lương Văn C. Thời hạn kháng cáo của bà H, ông C là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/01/2021).

Giấy chứng nhận kết hôn số 09 do Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Hòa, thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang cấp ngày 01/02/2010 cho bà Phạm Thị Mỹ H và ông Lương Văn C không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp.

(Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án số 17/2021/HNGĐ-ST ngày 14/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:17/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về