Bản án ngày 28/08/2023 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 434/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 434/2023/HS-ST NGÀY 28/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 08 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 448/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 08 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 459/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 08 năm 2023:

Vũ Thanh T, sinh năm 1998, tại Thanh Hóa; Nơi đăng ký thường trú: Thôn N, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; Nơi tạm trú: Tổ G, Khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Trình độ học vấn: Lớp 07/12; Nghề nghiệp: Không. Họ tên cha: Vũ Quang T1, sinh năm: 1968; Họ tên mẹ Phan Thị T2, sinh năm 1970; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự : Không.

Bị cáo bị bắt ngày 06/06/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

- Người bị hạ i : Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 2000.

Địa chỉ: B, Tổ G, Khu phố C, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lường Công T3, sinh năm: 1993; (Vắng mặt) Địa chỉ: 31/2, Tổ G, Khu phố F, phường T, TP ., Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vũ Thanh T và anh Nguyễn Văn K cùng thuê trọ tại địa chỉ nhà số B, Tổ G, Khu phố C, phường T, thành phố B. Do cần tiền tiêu xài, T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B6-xxxxx của anh K đem đi cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khoảng 13 giờ ngày 13/01/2022, T nói dối với anh K mượn chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B6-xxxxx đi uống cà phê, tin tưởng nên anh K đồng ý giao xe cho T. Lấy được xe, T mang đến tiệm cầm đồ D, địa chỉ: số C, Khu phố D, phường T, thành phố B vay của anh L Công Tưởng số tiền 2.500.000 (Hai triệu, năm trăm nghìn) đồng và để lại chiếc xe mô tô làm tin, T đã sử dụng hết số tiền trên để chơi game online. Muốn có thêm tiền chơi game, T tiếp tục nảy sinh ý định lừa anh K để lấy được Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B6-xxxxx mục đích đem đi thế chấp lấy thêm tiền. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, T trở về phòng trọ nói dối với anh K là xe đã bị Cảnh sát Giao thông tạm giữ do vi phạm giao thông và yêu cầu anh K đưa Giấy chứng nhận đăng ký xe để đi nộp phạt lấy xe về trả cho anh K. Tin lời nói của T nên anh K đã đưa Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B6- xxxxx cho T. Sau đó, T trở lại tiệm cầm đồ D, đưa Giấy chứng nhận đăng ký xe cho anh T3 để cầm thêm số tiền 5.200.000 (Năm triệu, hai trăm nghìn) đồng, T tiếp tục sử dụng hết số tiền trên để chơi game online. Do chưa thấy T đưa xe về trả nên anh K gọi điện, nhắn tin thì T thừa nhận với anh K đã mang xe đi cầm lấy tiền chơi game, không có khả năng chuộc lại xe cho anh K nên anh K đã trình báo Công an phường T, lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B để điều tra xử lý. Ngày 08/04/2022, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B đã khởi tố vụ án. Quá trình điều tra, T bỏ trốn đến ngày 06/06/2023 thì bị bắt truy nã.

Vật chứng thu giữ: 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B6- xxxxx và Giấy chứng nhận đăng ký xe, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B đã giao trả cho anh Nguyễn Văn K; 01 (Một) USB ghi lại hình ảnh có liên quan đến Vũ Thanh T thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lưu hồ sơ vụ án.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 14/TCKH-HĐĐG ngày 18/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B đã kết luận: 01 (Một) xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B6-xxxxx có giá trị 13.260.000 (Mười ba triệu, hai trăm sáu mươi nghìn) đồng.

Về dân sự: anh Nguyễn Văn K đã nhận lại xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B6-xxxxx, Vũ Thanh T đã bồi thường cho anh L Công Tưởng số tiền 7.700.000 (Bảy triệu, bảy trăm nghìn) đồng nên anh K, anh T3 không yêu cầu bồi thường.

Bản cáo trạng số 456/CT-VKSBH ngày 09/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Vũ Thanh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 174 ; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” từ 12 tháng tù đến 14 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: anh K, anh T3 không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 13/01/2022, bị cáo T đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 60B6-xxxxx trị giá 13.260.000 (Mười ba triệu, hai trăm sáu mươi nghìn) đồng của anh Nguyễn Văn K. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Vũ Thanh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an, gây hoang mang lo lắng nơi xảy ra tội phạm.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Quá trình điều tra bị cáo bỏ trốn bị bắt truy nã. Tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường thiệt hại là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: anh Nguyễn Văn K, anh L Công Tưởng không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Biên Hòa về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[7] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Tuyên bố bị cáo Vũ Thanh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Xử phạt bị cáo Vũ Thanh T: 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 06/6/2023.

2. Về án Phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Vũ Thanh T phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Bị cáo Vũ Thanh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Nguyễn Văn K, anh L Công Tưởng được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án ngày 28/08/2023 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 434/2023/HS-ST

Số hiệu:434/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về