TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 06 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 49/2022/TLST- HNGĐ, ngày 11 tháng 8 năm 2022 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phàng Thị S; Nơi cư trú: Bản S, xã C, huyện B, tỉnh Sơn La; vắng mặt có lý do, xin giải quyết, xét xử vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Đinh Huy H; Nơi cư trú: Bản S, xã C, huyện B, tỉnh Sơn La;
vắng mặt có lý do, xin giải quyết, xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 09/8/2022, bản tự khai nguyên đơn là chị Phàng Thị S trình bày: Chị và anh Đinh Huy H tìm hiểu nhau và đi đến kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 17/4/2014 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Đến nay, chị Say nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên mong muốn Tòa án giải quyết cho chị S được ly hôn với anh Đinh Huy H.
Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị S và anh H có một con chung là cháu Đinh Thị H, sinh ngày 16/11/2012. Nguyện vọng của chị Phàng Thị S được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đinh Thị H. Không yêu cầu anh Đinh Huy H phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.
Về vay nợ chung: Vợ chồng không vay nợ của ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án Do điều kiện hoàn cảnh đi làm ăn xa, không xin công ty nghỉ được chị Say không thể về để giải quyết việc Ly hôn, do đó chị Phàng Thị S có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt.
Tại bản tự khai bị đơn là anh Đinh Huy H trình bày: Anh và chị Phàng Thị S tìm hiểu nhau và đi đến kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 17/4/2014 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Đến nay, anh H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên mong muốn Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn.
Về con chung: Trong thời gian chung sống anh H, chị S có một con chung là cháu Đinh Thị H, sinh ngày 16/11/2012. Hiện tại cháu Đinh Thị H đang ở với anh H và ông bà nội tại bản S, xã C, huyện B, tỉnh Sơn La. Nguyện vọng của anh Đinh Huy H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Đinh Thị H. Không yêu cầu chị Say phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.
Về vay nợ chung: Vợ chồng không vay nợ của ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án Do điều kiện, hoàn cảnh gia đình đang khó khăn, việc đi lại phức tạp, anh H không thể đến để giải quyết việc Ly hôn, do đó anh Đinh Huy H có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt.
Tại biên bản lấy ý kiến ngày 11/8/2022 cháu Đinh Thị H có nguyện vọng được ở với bố là anh Đinh Văn H.
Do các bên đương sự có đơn yêu cầu không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải. Vì vậy Tòa án không tiến hành mở piên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Đại diện Viện kiểm sát ý kiến: Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, nguyên đơn, bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt có lý do điều kiện, hoàn cảnh đi làm ăn xa, gia đình khó khăn, việc đi lại phức tạp có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt. Tòa án đã tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung thực hiện theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 1Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 57, 58, 81, 82, 83Luật hôn nhân và gia đình;điểm đ, khoản 1, điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phàng Thị S, yêu cầu ly hôn với anh Đinh Huy H; giao cháu Đinh Thị H, sinh ngày 16/11/2012 anh Đinh Huy H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi, chị Phàng Thị Skhông phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí, đề nghị miễn án phí dân sự sơ thẩm cho đương sự theo quy định của pháp luật.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Theo đơn khởi kiện và yêu cầu, đề nghị của các đương sự. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn” do nguyên đơn chị Phàng Thị S khởi kiện đối với bị đơn anh Đinh Huy H có nơi cư trú bản S, xã C, huyện B, tỉnh Sơn La. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết, xét xử của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La.
[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phàng Thị S và bị đơn anh Đinh Huy H đã được thông báo, triệu tập hợp lệ nhưng hai bên đương sự đều có đơn xin giải quyết, xét xử vắng có lý do, nên Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải và quyết định xét xử vắng mặt chị Phàng Thị S, anh Đinh Huy H theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phàng Thị S và anh Đinh Huy H có tìm hiểu và đi đến kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 17/4/2014 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Đến nay, chị S nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên mong muốn Tòa án giải quyết cho chị S được ly hôn với anh Đinh Huy H. Nhận thấy, từ năm 2017 đến nay chị S, anh H không còn chung sống với nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bản thân anh H cũng xác định không còn tình cảm với chị S và xin được ly hôn với chị S. Do vậy, cần căn cứ vào khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị S và anh H.
[4] Về con chung, cấp dưỡng nuôi con chung: Trong thời gian chung sống chị S và anh H có một con chung là cháu Đinh Thị H, sinh ngày 16/11/2012. Chị S có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc cháu Đinh Thị H cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không yêu cầu anh Đinh Huy H phải cấp dưỡng nuôi con chung. Bản thân anh H cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cháu Đinh Thị H, không yêu cầu chị S cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện tại cháu Đinh Thị H đang ở với anh H và ông bà nội tại bản S, xã C, huyện B, tỉnh Sơn La. Cháu Đinh Thị H có nguyện vọng mong muốn ở với bố, nên cần xem xét, tôn trọng ý kiến của cháu. Cháu Đinh Thị H là người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) khi chị S và anh H không còn chung sống cần xem xét phân chia trách nhiệm nuôi con chung, tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên và xem xét nguyện vọng của con do cháu Đinh Thị H đã trên 7 tuổi, cháu Đinh Thị H có nguyện vọng được ở với bố, hiện tại cháu đang ở cùng bố, anh H có đầy đủ khả năng, điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức. Do đó, để đảm bảo sự ổn định, lợi ích mọi mặt của cháu Đinh Thị H, cần giao cháu Đinh Thị H cho anh Đinh Huy H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục đến khi cháu trưởng thành, đủ 18 tuổi theo quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chị Phàng Thị S không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ chăm nom con mà không ai được cản trở.
[5] Về tài sản chung: Chị Phàng Thị S và anh Đinh Huy H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về tài sản chung trong vụ án.
[6] Về vay nợ chung: Chị Phàng Thị S và anh Đinh Huy H xác định không có nợ chung, đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[7] Về án phí: Theo Quyết định 612/QĐ-UBDT ngày 16/9/2021 của Ủy ban dân tộc phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, thì chị Phàng Thị S và anh Đinh Huy H đều sinh sống tại bản S, xã C, huyện B, tỉnh Sơn La là nơi có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định tại điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Do vậy Tòa cần xem xét miễn án phí cho các đương sự.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1Điều 228, Điều 238,Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 1 Điều 51, Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phàng Thị S được ly hôn với anh Đinh Huy H 2. Về con chung: Giao cháu Đinh Thị H, sinh ngày 16/11/2012 cho anh Đinh Huy H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành, đủ 18 tuổi. Chị Phàng Thị S không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3. Về tài sản chung và vay nợ chung: Đương sự không yêu cầu, Tòa án không giải quyết trong vụ án.
4. Về án phí: Miễn án phí cho các đương sự.
Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án theo quy định chung của pháp luật.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án ngày 06/09/2022 về ly hôn
Số hiệu: | 15/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bắc Yên - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về