Bản án 99/2021/HS-ST ngày 16/08/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 99/2021/HS-ST NGÀY 16/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại Toà án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2021/TLST-HS, ngày 07/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/QĐXX-HS ngày 04/8/2021 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Trí T, sinh ngày 28/11/1982; Giới tính: Nam;

Nơi cư trú: Tổ dân phố 5, phường A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Trần Thị C (đã chết); Anh, chị em ruột: Có 03 người, bị cáo là thứ ba; Vợ, con: Không có.

- Tiền án: không

- Tiền sự:

- Ngày 13/7/2019, UBND xã A (nay là UBND phường A), thành phố T, tỉnh Tuyên Quang áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, thời gian áp dụng là 03 (ba) tháng kể từ ngày 13/7/2019, hình T cai nghiện chất ma túy bằng thuốc thay thế (Methadone) tại Trung tâm y tế dự phòng thành phố T;

- Ngày 13/01/2021, Công an phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, phạt tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng);

- Ngày 05/3/2021, Công an phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, phạt tiền 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng);

Nhân thân:

- Ngày 29/3/2021, Tòa án nhân dân thành phố T quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 01 (một) năm;

- Ngày 31/7/2008, Công an thị xã T (nay là Công an thành phố T), tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) về hành vi Mua dâm;

- Ngày 25/4/2005, Công an huyện Y, tỉnh Tuyên Quang xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) về hành vi Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/5/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

* Bị hại: Ông Nguyễn Tất L, sinh năm 1934; Địa chỉ: Tổ dân phố 7, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, có mặt.

* Người làm chứng: Anh Bùi Quang C, sinh năm 1993; Địa chỉ: Tổ dân phố 4, phường A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 09/3/2021, Bùi Quang C, cư trú tại: Tổ dân phố 14, phường A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 22H2 - 7827 (C mượn của anh Đào Anh D) chở Nguyễn Trí T, cư trú tại: Tổ dân phố 5, phường A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang đi tìm chỗ cầm cố điện thoại của C, mục đích lấy tiền mua ma túy để C và T cùng sử dụng. Trên đường đi qua Đền Hạ thuộc tổ dân phố 2, phường T, thành phố T, thấy đông người đi lễ, C và T bàn bạc nhau vào đền lấy trộm tiền trên các ban thờ. C dừng xe trước cổng đền, bảo T đứng đợi rồi C đi vào trong đền trộm cắp tiền ở các đĩa trên các ban thờ được 65.000đ (sáu mươi lăm nghìn đồng), cất vào túi quần rồi đến phòng làm việc của Tổ quản lý đền, thấy trên bàn có một máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY TAB E màu trắng của ông Nguyễn Tất L, trú tại tổ dân phố 7, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang là Tổ trưởng Tổ bảo vệ đền, quan sát trong phòng không có người nên C trộm cắp chiếc máy tính bảng, cất giấu trong người đi ra chỗ để xe thì không thấy T đâu.

Sau khi thấy C vào trong đền, T đi vào đền trộm cắp tiền trong các đĩa trên các ban thờ được 70.000đ (bẩy mươi nghìn đồng), T cất vào túi quần rồi đi ra nơi để xe để gặp C, C điều khiển xe chở T đi đến cửa hàng điện thoại Quang Vinh của anh Lê Quang Minh, địa chỉ tại tổ dân phố 11, phường Phan Thiết, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang bán chiếc máy tính bảng vừa trộm cắp được 1.050.000đ (một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng). C không nói cho T biết việc C trộm cắp máy tính bảng.

C điều khiển xe chở T ra khu vực đồi chè thuộc phường A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang rồi C một mình đi ra khu vực Bến xe khách Tuyên Quang mua ma túy của một người đàn ông không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ với số tiền 1.050.000đ (một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) rồi C quay lại đồi chè đón T đi sử dụng hết số ma túy mua được, số tiền 65.000đ C trộm cắp được và số tiền 70.000đ T trộm cắp được, C và T đã chi tiêu hết.

Tại Kết luận định giá tài sản số 16/KLĐG ngày 19/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T, kết luận: 01 máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY TAB E đã qua sử dụng, trị giá 1.400.000đ (một triệu bốn trăm nghìn đồng).

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Trí T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường; đơn trình báo, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 91/CT-VKSTP ngày 05/7/2021của Viện kiểm sát nhân dân nhân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Nguyễn Trí T về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm a khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trí T phạm tội: Trộm cắp tài sản; Xử phạt bị cáo Nguyễn Trí T từ 06 (sáu) tháng tù đến 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam.

Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

- Tuyên nghĩa vụ chịu án phí của bị cáo và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo không kêu oan, nội dung khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, không có tình tiết mới, bị cáo không có khiếu nại gì về kết luận điều tra, nhất trí với nội dung cáo trạng và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Bị cáo nói lời sau cùng, xin Hội đồng xét xử cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và năng lực chịu trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Từ những chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 09/3/2021, tại Đền Hạ thuộc tổ dân phố 02, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Nguyễn Trí T, nơi cư trú: Tổ dân phố 5, phường A, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang (có một tiền sự về hành vi: Trộm cắp tài sản) có hành vi: Trộm cắp tại các ban thờ của Đền Hạ số tiền 70.000đ (Bẩy mươi nghìn đồng).

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản là ông Nguyễn Tất L để lén lút chiếm đoạt 70.000đ (Bẩy mươi nghìn đồng), số tiền bị cáo trộm cắp dưới 2.000.000đ (hai triệu đồng) nhưng do bị cáo đã có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản nên hành vi của bị cáo cấu thành tội Trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo Nguyễn Trí T về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo có sức khỏe, có khả năng lao động nhưng không chịu lao động kiếm tiền chân chính mà lại trộm cắp tài sản để có tiền tiêu sài. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Chị gái của bị cáo là Nguyễn Thị Hoan đã bồi thường cho bị hại số tiền 70.000đ (bẩy mươi nghìn đồng) thay cho bị cáo, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: HĐXX nhận thấy, bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản và nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính vì vi phạm phạm pháp luật nhưng không rút kinh nghiệm mà còn tiếp tục vi phạm pháp luật, qua đó đánh giá ý T chấp hành pháp luật của bị cáo còn rất kém. Hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, khó có thể tự mình tu dưỡng cải tạo tại địa phương. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm C.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; số tiền bị cáo chiếm đoạt cũng như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập thường xuyên; không có tài sản gì có giá trị. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.

[7] Đối với Bùi Quang C là người trộm cắp số tiền 65.000đ (sáu mươi lăm nghìn đồng) và 01 máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY TAB E đã qua sử dụng, trị giá 1.400.000đ (một triệu bốn trăm nghìn đồng), tổng giá trị chiếm đoạt tài sản dưới 2.000.000đ (hai triệu đồng), chưa có tiền án, tiền sự nên hành vi của C không cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Ngày 07/6/2021, Công an thành phố T đã, xử phạt vi phạm hành chính, phạt tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) nên HĐXX không xem xét xử lý;

Đối với anh Đào Anh D là chủ sở hữu xe mô tô Biển kiểm soát 22H2 - 7827 nhưng không biết Bùi Quang C sử dụng xe để chở Nguyễn Trí T đi trộm cắp tài sản nên HĐXX không xem xét xử lý;

Đối với anh Lê Quang Minh là người mua 01 máy tính bảng nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY TAB E của Bùi Quang C nhưng anh Minh không biết là tài sản do C trộm cắp mà có nên HĐXX không xem xét xử lý.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

- Chị Nguyễn Thị Hoan là người tự nguyện bồi thường 70.000đ (bẩy mươi nghìn đồng) cho ông Nguyễn Tất L thay bị cáo Nguyễn Trí T và không yêu cầu bị cáo phải trả khoản tiền này. Ông Nguyễn Tất L đã nộp số tiền 70.000đ (bẩy mươi nghìn đồng) vào công quỹ của Đền Hạ. Do vậy, HĐXX không xem xét về trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với chị Nguyễn Thị Hoan và ông Nguyễn Tất L.

- Anh Đào Anh D đã nhận lại chiếc xe mô tô BKS 22H2 - 7827 mà Bùi Quang C sử dụng chở bị cáo Nguyễn Trí T đi trộm cắp tài sản, anh Dũng không có yêu cầu bồi thường gì về xe nên HĐXX không xem xét trách nhiệm dân sự của bị cáo Nguyễn Trí T đối với anh Dũng.

[9] Vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an thành phố T thu giữ của Bùi Quang C 01 xe mô tô BKS 22H2 – 7827 (xe C sử dụng chở bị cáo Nguyễn Trí T đi trộm cắp tài sản), ngày 18/6/2021 Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Đào Anh D nên HĐXX không xem xét xử lý về vật chứng.

[10] Án phí của vụ án: Bị cáo Nguyễn Trí T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trí T phạm tội Trộm cắp tài sản;

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trí T 07 (bẩy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 11/5/2021.

2. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Trí T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm - Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án 16/8/2021./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2021/HS-ST ngày 16/08/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:99/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về