TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 99/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 16 tháng 9 năm 2021, tại phòng xử án, Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 229/2021/TLST- HNGĐ, ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 75/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2021; Thông báo chuyển lịch xét xử và Thông váo mở lại phiên tòa, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Phương D. Sinh năm 1995.
Trú tại: Đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
- Bị đơn: Ông Trịnh Ngọc H. Sinh năm 1989.
Trú tại: Đường N, thôn X, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo nội D đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Phương D trình bày:
Bà Nguyễn Thị Phương D và ông Trịnh Ngọc H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 18/9/2014. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là tính tình và quan điểm sống không hợp nhau, nên vợ chồng thường xuyên xung khắc; không chia sẻ và yêu thương nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng bị sứt mẻ. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không thể kéo dài, cuộc sống chung không đem lại hạnh phúc cho cả hai, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Nguyễn Thị Phương D xin được ly hôn ông Trịnh Ngọc H.
+ Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Trịnh Ngọc Phương H, sinh ngày 15/01/2012. Bà D có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung Trịnh Ngọc Phương H đến tuổi trưởng thành.
Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Nguyễn Thị Phương D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
+ Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Phương D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn ông Trịnh Ngọc H: Quá trình giải quyết vụ án, ông H đã không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự về quyền, nghĩa vụ của đương sự. Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột và chính quyền địa phương đã nhiều lần tống đạt hợp lệ, niêm yết các văn bản tố tụng cho ông H để ông H tham gia tố tụng giải quyết vụ án, nhưng ông H vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông H theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự:
+ Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng và đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70 và 71 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn không thực hiện quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng, nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
+ Về nội dụng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Phương D; cho bà D được ly hôn ông Trịnh Ngọc H.
Về con chung: Đề nghị giao con chung Trịnh Ngọc Phương H, sinh ngày 15/01/2012 cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến tuổi trưởng thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luật tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn, nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Trịnh Ngọc H đã không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự về quyền, nghĩa vụ của bị đơn. Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần tham gia tố tụng giải quyết vụ án nhưng ông H vẫn vắng mặt không lí do. Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông H.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Phương D và ông Trịnh Ngọc H là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà D và ông H kết hôn với nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Thắng Lợi, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 18/9/2014. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình và quan điểm sống không hợp nhau, nên vợ chồng thường xuyên xung khắc; không chia sẻ và yêu thương nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng bị sứt mẻ. Bà D và ông H đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay.
Tại biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của bà D và ông H, chính quyền địa phương cung cấp kết quả: Quá trình chung sống, bà D và ông H có những mâu thuẫn; xảy ra cãi vã, bất đồng quan điểm sống; vợ chồng đã sống ly thân.
Xét thấy hôn nhân giữa bà D và ông H tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét yêu cầu của bà Nguyễn Thị Phương D xin được ly hôn ông Trịnh Ngọc H là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận.
[4] Về con chung: Bà D có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Trịnh Ngọc Phương H đến tuổi trưởng thành. Xét yêu cầu của bà D, Hội đồng xét xử thấy, từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử, mặc dù được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông H cố tình vắng mặt, không tham gia tố tụng và không có ý kiến gì về con chung. Mặt khác, bà D đang là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu H và cháu H cũng có nguyện vọng được ở với bà D. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của bà D, giao con chung Trịnh Ngọc Phương H, sinh ngày 15/01/2012 cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến tuổi trưởng thành để đảm bảo sự phát triển về mọi mặt, tránh sự xáo trộn về tâm lý của cháu H là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.
+Về cấp dưỡng nuôi con: Bà D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.
Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trong quá trình bà D nuôi dưỡng con chung, vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có căn cứ.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Phương D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập giải quyết.
[6] Về án phí: Bà D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Bà D được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2019/0018797 ngày 30/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 70, Điều 72; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 144, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình;
- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Phương D. Cho bà Nguyễn Thị Phương D được ly hôn ông Trịnh Ngọc H.
2. Về con chung: Giao con chung Trịnh Ngọc Phương H, sinh ngày 15/01/2012 cho bà Nguyễn Thị Phương D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến tuổi trưởng thành.
- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trong quá trình bà D nuôi dưỡng con chung, vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có căn cứ.
3. Về tài sản chung và công nợ chung: Bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đề cập.
4. Về án phí: Bà D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Bà D được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2019/0018797 ngày 30/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột.
Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 99/2021/HNGĐ-ST ngày 16/09/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 99/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về