Bản án 99/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 99/2019/HS-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Hôm nay ngày 29 tháng 8 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 99/2019/HSST ngày 29 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 105/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế D, sinh năm 1999. Tại Kiên Giang.

Nơi cư trú: tổ 7, khu phố T, thị trấn K, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Nghề nghiệp: Học sinh. Trình độ học vấn: 11/12.

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc Tịch: Việt Nam.

Con ông Nguyễn Thế C (chết) và bà Nguyễn Thị L.

Gia đình có 02 anh em. Bị cáo là con thứ 02 trong gia đình.

Chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị tạm giữ ngày 08/11/2017 đến ngày 06/3/2018 được trả tự do tại phiên tòa sơ thẩm. Bắt tạm giam lại ngày 05/11/2008 đến ngày 07/11/2008 hủy bỏ biện pháp tạm giam, cho bị cáo tại ngoại.

(vắng mặt).

+ Người bị hại:

- Anh Trần Trọng T, sinh năm: ngày 12/8/2001.

Địa chỉ: ấp 1B, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

(vắng mặt) + Người làm chứng:

Chị Trần Huỳnh T, sinh năm: 2001.

Địa chỉ: ấp 2, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Anh Hà Anh T, sinh năm: 2001.

Địa chỉ: tổ 4, ấp 1C, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm: 2000.

Địa chỉ: ấp 1C, xã P, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Anh Nguyễn N, sinh năm: 2001.

Địa chỉ: ấp 2, xã B, huyện L, tỉnh Đồng Nai.

(những người làm chứng vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thế D, Nguyễn Tuấn A, Hà Anh T, Trần Trọng T là học sinh tại trường Cao đẳng nghề Lilama II thuộc ấp T, xã L, huyện L.

Lúc 15 giờ 30 phút ngày 07/11/2017, D có hành động trêu ghẹo, hôn vào má của Trần Huỳnh T học cùng trường. Sau đó T có đăng trạng thái trên mạng xã hội feabook với nội dung chửi D. Lúc này có Tuấn A vào bình luận và báo cho Trần Trọng T là bạn trai của T, T đọc được nên ghen tuông, nảy sinh ý định đánh D để trả thù. Đến 11 giờ ngày 08/11/2017, T nhắn tin cho Nguyễn N (bạn cùng lớp với D) để dò hỏi D có đi học vào buổi chiều không. N trả lời “không biết nữa” thì T nghĩ D sẽ đi học nên lấy 01 cây ba trắc dài khoảng 60cm bỏ vào cặp mang theo đánh D. Cùng lúc này, N nhắn tin thông báo cho D:

“mày đi học cẩn thận, có người cầm hàng chơi mày đó”. D nghĩ T sẽ tìm đánh mình nên mang theo 01 con dao Thái Lan cán gỗ dài 21cm, bản rộng 2.5cm. lưỡi dao làm bằng kim loại, mũi nhọn bỏ vào cặp để tự vệ. Đến 12 giờ 15 phút cùng ngày, T lấy ba trắc mang theo rủ Hà Anh T, Nguyễn Tuấn A đến lớp của D để đánh nhau. Cả nhóm đồng ý. Khi T đến lớp, D liền lấy dao giấu trong cặp nhét vào tay áo bên trái, lúc này T cầm ba trắc trên tay đi vào lớp hỏi “D là thằng nào”. D trả lời “tao D đây” thì lập tức T dùng ba trắc xông vào đánh trúng vào vai trái của D, D liền rút dao trong tay áo đâm trúng vào bên hông ngực phải của T, T bỏ chạy ra ngoài thì T dùng chân đạp vào người D, D dùng dao đâm một nhát trúng vào bụng của T. Sau khi sự việc xảy ra, T và T được đưa đi bệnh viện cấp cứu, D đến Công an xã L đầu thú.

Vật chứng vụ án:

- 01 con dao Thái Lan cán gỗ dài 21cm, bản rộng 2.5cm, lưỡi dao làm bằng kim loại, mũi nhọn.

Tại Bản giám định pháp y số 0925/GĐPY/2017 ngày 10/11/2017 của Hội đồng giám định pháp y tỉnh Đồng Nai kết luận thương tích của Trần Trọng T như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định.

- Tổn thương thủng cơ hoành phải đã phẫu thuật khâu cơ hoành (Áp dụng Chương 4, điều V, mục 2). Tỷ lệ: 21%.

- Vết thương ngực phải thấu ngực gây tràn máu màng phổi phải đã phẫu thuật dẫn lưu màng phổi phải (Áp dụng Chương 4, điều III, mục 2). Tỷ lệ: 16%.

- Vết thương rách gan phải đã được điều trị bảo tồn ( Áp dụng Chương 5, điều VII, mục 1). Tỷ lệ: 05%.

- Vết thương ngực phải kích thước 01x0,2cm ( Áp dụng Chương 9, điều I, mục 1). Tỷ lệ: 01% 2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể (Áp dụng theo phương pháp cộng lùi) do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 38% (Ba mươi tám phần trăm) 3. Kết luận khác:

- Vật gây thương tích: vật sắc nhọn.

Ngày 17/11/2017 Hà Anh T có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu khởi tố đối với Nguyễn Thế D.

Bản cáo trạng số: 74/CT-VKSLT ngày 22/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế D về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại xong.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành vẫn bảo lưu quan điểm truy tố đối với bị cáo D tại Bản cáo trạng số: 74/VKS.HS ngày 22/5/2019. Đề nghị áp dụng khoản 3 Điều 134 ; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thế D mức án từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: 01 con dao Thái Lan cán gỗ dài 21cm, bản rộng 2.5cm, lưỡi dao làm bằng kim loại, mũi nhọn.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin vắng mặt nên không trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và truy tố bị cáo, người bị hại, người làm chứng, không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo D có đơn xin xét xử vắng mặt Hội đồng xét xử chấp nhận, căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo. Đối với người bị hại Trần Trọng T đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập tham dự phiên tòa, nhưng anh T vắng mặt không rõ lý do, về trách nhiệm dân sự cũng đã được bị cáo và người bị hại thỏa thuận bồi thường xong nên căn cứ khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị hại.

[2]. Bị cáo D là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai người bị hại, những người làm chứng có tại hồ sơ vụ án cùng các tài liệu chứng cứ tại hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định, giữa bị cáo D và bị hại T có phát sinh mâu thuẫn do T nghĩ D đã có hành động trêu ghẹo bạn gái của T là Trần Huỳnh T. Vào khoảng 12 giờ 15 ngày 07/11/2017, T đi cùng với Hà Anh T và Nguyễn Tuấn A chủ động đến lớp học của D để tìm đánh D. Khi đến nơi, T là người dùng đoạn cây ba trắc chủ động đánh D trước và ngay sau đó bị cáo D đã dùng dao Thái Lan (đã chuẩn bị sẵn khi đến lớp do sợ T sẽ tìm đánh D) đâm trúng vào hông phải của T gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 38%, thương tích do vật sắt gây nên, dùng hung khí nguy hiểm. Hành vi trên của bị cáo D đã cấu thành tội ‘Cố ý gây thương tích’ như bản Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành là đúng người, đúng tội.

Bị cáo, bị hại không thắc mắc gì về Bản giám định pháp y số 0925/GĐPY/2017 ngày 10/11/2017 của Hội đồng giám định pháp y tỉnh Đồng Nai.

Tuy nhiên, việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo D theo khoảng 3 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 là chưa chính xác, vì tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành. Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải truy tố theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung 2009, nhưng so với khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự 2015, thì Bộ luật hình sự năm 1999 được sữa đổi bổ sung 2009 quy định khung hình phạt nặng hơn. Nên cần áp dụng quy định có lợi của Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo, được quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe người khác một cách trái pháp luật, ít nhiều gây ảnh hưởng tình hình trật tự trị an xã hội. Xét thấy cần phải xử phạt bị cáo mức án phạt tù thật nghiêm mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện cũng để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[3]. Tuy nhiên, cần xem xét cho bị cáo D sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, quá trình điều tra, truy tố đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại xong. Trong vụ án này xét người bị hại anh Trần Trọng T cũng có một phần lỗi là chỉ vì nghi ngờ D trêu ghẹo bạn gái của mình mà T đã chủ động chuẩn bị hung khí và gọi thêm Hà Anh T và Nguyễn Tuấn A đến lớp nơi D học đánh bị cáo D, anh T cũng đã thực hiện hành vi dùng cây ba trắc đánh bị cáo D trước.

Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung 2009, nhưng so với khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, thì Bộ luật hình sự năm 2015 quy định tình tiết giảm nhẹ mới cho người phạm tội. Nên cần áp dụng quy định có lợi của Bộ luật hình sự năm 2015 cho bị cáo, được quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

Ngày 06/3/2018, Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm đối với bị cáo D về tội Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Ngày 22/6/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử lại vụ án theo trình tự phúc thẩm và tuyên hủy bản án sơ thẩm để điều tra, truy tố và xét xử lại vụ án. Ngày 06/11/2008, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiến hành dẫn giải bị cáo D đến hiện trường gây án để thực nghiệm điều tra, trong quá trình thực nghiệm điều tra bị cáo D đã có hành vi nhảy từ trên lầu xuống đất và đã để lại thương tích cho bản thân bị cáo D, do bệnh viện Chợ rẫy cung cấp tại hồ sơ: Đa chấn thương nặng: Nứt trần ổ mắt + tụ khí nội sọ, Gãy mõm ngang L4, L5. Gãy xương cùng, gãy cổ xương đùi T. Gãy ngành ngồi mu T, trật khớp mu. Gãy xương gót P. gãy lồi cầu trong xương cánh tay P. Dập phổi, vỡ tinh hoàn T. Hiện tại theo gia đình cung cấp và chính quyền địa phương xác nhận bị cáo D không thể đi lại được nằm một chỗ tại gia đình và phải có người chăm sóc. Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bố là ông Nguyễn Thế C đã chết 03/6/2019. Xét không cần phải xử phạt tù đối với bị cáo D mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe phòng ngừa tội phạm, để tạo điều kiện cho người thân chăm sóc đối với bị cáo D và để thể hiện T chất nhân đạo của pháp luật.

[4]. Trách nhiệm dân sự:

Trong giai đoạn điều tra, truy tố bị cáo D đã bồi thường thiệt hại cho bị hại xong, người bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[5]. Xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy 01 con dao Thái Lan cán gỗ dài 21cm, bản rộng 2.5cm. lưỡi dao làm bằng kim loại, mũi nhọn, hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/01/2018.

Ngoài ra, trong vụ án này còn có Hà Anh T là người đã bị bị cáo D gây thương tích nhưng anh Tuấn từ chối giám định, không đề nghị xử lý hình sự đối với bị cáo D nên không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009.

Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội.

Căn cứ điểm c Khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế D phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Nguyễn Thế D 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm T từ ngày tuyên án 29/8/2019.

Giao bị cáo D cho UBND thị trấn K, huyện Ks, tỉnh Kiên Giang giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy 01 con dao Thái Lan cán gỗ dài 21cm, bản rộng 2.5cm. lưỡi dao làm bằng kim loại, mũi nhọn.

Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo D phải chịu 200.000đồng (hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:99/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về