Bản án 99/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 99/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 92/2019/TLST-HS, ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Đức C, sinh ngày 10/02/1982 tại Thôn Bái Tr, xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình “có mặt”;

Nơi cư trú: Thôn Bái Tr, xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Đắc Thọ, sinh năm 1958 và con bà Vũ Thị Bật (đã chết). Nơi cư trú tại Thôn Bái Tr, xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; có vợ Vũ Thị Thà, sinh năm 1983 và có 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2007; Tiền sự: Không;

Tiền án: Bản án số 70/2016/HSST ngày 29/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/02/2018, chấp hành xong án phí ngày 06/12/2016. Nhân thân: Bị cáo C có nhân thân xấu là đối tượng nghiện ma túy và đã bị kết án năm 2016 và chưa được xóa án tích. Bị cáo C đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình (theo Lệnh tạm giam số 64 ngày 13/9/2019 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình trong vụ án hình sự sơ thẩm về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”).

Bị hại: Bà Đỗ Thị Th, sinh năm 1973 “vắng mặt”.

Nơi cư trú: Thôn Bồ T, xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình

Ngưi làm chứng: Bà Vũ Thị Thà, sinh năm 1983 “vắng mặt”.

Nơi cư trú: Thôn Bái Tr, xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 07/9/2019, C đi bộ từ nhà ra cánh đồng để tìm nơi kích cá. Khi đi đến khu vực vườn chuyển đổi của bà Đỗ Thị Th ở cánh đồng Hàng Sinh thuộc thôn Bồ Trang 1, xã Quỳnh H cách trục đường liên xã Quỳnh H - Quỳnh Thọ khoảng 600m thì nhìn thấy tại mé đường bê tông nội đồng có dựng 01 xe mô tô nhãn hiệu Wait, sơn màu xanh, biển kiểm soát 17K1- 3559, đầu xe quay về phía vườn, đuôi xe quay ra đường liên xã, chìa khóa không cắm ở ổ khóa điện nhưng đèn Mode vẫn sáng. Quan sát thấy xung quanh vắng vẻ, xe không có người trông coi. C đi đến, dong xe quay đầu hướng lên đường liên xã rồi nổ máy điều khiển xe đi về nhà. Để tránh bị phát hiện, C dong xe vào gian bếp, lấy chiếc kìm bằng kim loại dài 18,5cm có hai tay cầm bọc nhựa màu đỏ và chiếc tua vít (bằng kim loại một đầu 04 cạnh, một đầu có tay cầm bọc nhựa màu đỏ trắng đen của gia đình C tháo biển số xe, tháo 02 cánh yếm và ốp nhựa hai bên thân xe, ốp chắn bùn phía trước của xe rồi giấu vào bể nước không còn sử dụng của gia đình. Sau đó, C lấy chiếc mặt nạ và 02 ốp nhựa thân xe màu đỏ (của chiếc xe mô tô Wave alpha màu đỏ của C) lắp vào chiếc xe vừa trộm cắp được rồi điều khiển xe lên thị trấn Quỳnh Côi để tìm nơi tiêu thụ. Khi đi đến ngã tư thôn Bồ Trang, xã Quỳnh H, C gặp bà Th. Do quen biết nhau nên C dừng xe, nói chuyện với bà Th. Bà Th kể cho C nghe việc bà bị mất xe máy. C liền hỏi bà Th có mua chiếc xe C đang sử dụng không nhưng bà Th không mua. Sau đó, C tiếp tục điều khiển xe đi lên thị trấn Quỳnh Côi để tìm nơi tiêu thụ. Do nghi ngờ chiếc xe C đang sử dụng là xe của mình nên bà Th đã làm đơn trình báo Công an xã Quỳnh H.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ đã triệu tập C lên trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Hoàng Đức C đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô của bà Th và tự giác giao nộp: 01 xe mô tô nhãn hiệu Wait, không đeo biển kiểm soát, thân xe được lắp ốp vỏ bằng nhựa màu đỏ, xe không gương, không lắp 02 cánh yếm, không lắp chắn bùn phía trước; 01 biển kiểm soát 17K1-3559; 01 kìm bằng kim loại dài 18,5cm có 02 tay cầm bọc nhựa màu đỏ; 01 tua vít bằng kim loại dài 24cm, một đầu có 04 cạnh, một đầu có tay cầm bọc nhựa màu đỏ trắng đen; 01 mặt nạ xe mô tô nhãn hiệu Wait màu xanh; 02 ốp thân xe màu xanh; 02 yếm xe màu xanh; 01 ốp chắn bùn phía trước màu xanh.

Biên bản Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quỳnh Phụ kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wait, biển kiểm soát 17K1- 3559 trị giá là 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo C không có ý kiến hay khiếu nại gì về Bản kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.

Bản cáo trạng số 98/CT-VKSQP ngày 06/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Hoàng Đức C về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Ông kiểm sát viên thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hoàng Đức C như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng nêu trên. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Hoàng Đức C phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 và Điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Đức C từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã có đơn xin nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo C bồi thường và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo C nên không xem xét.

Về hình phạt bổ sung đề nghị không áp dụng là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị trả lại bà Đỗ Thị Th chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wait, không đeo biển kiểm soát, xe không gương, không lắp 02 cánh yếm, không lắp chắn bùn phía trước; 01 biển kiểm soát 17K1- 3559; 01 mặt nạ xe mô tô nhãn hiệu Wait màu xanh; 02 ốp thân xe màu xanh; 02 yếm xe màu xanh; 01 ốp chắn bùn phía trước màu xanh. Tịch thu tiêu hủy: 01 kìm bằng kim loại dài 18,5cm có 02 tay cầm bọc nhựa màu đỏ; 01 tua vít bằng kim loại dài 24cm, một đầu có 04 cạnh, một đầu có tay cầm bọc nhựa màu đỏ trắng đen, 02 ốp thân xe màu đỏ.

Về án phí: Bị cáo C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và lời luận tội của ông Kiểm sát viên và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo Hoàng Đức C nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại chiếc xe mô tô nêu trên cho bà Th và cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của bị hại bà Đỗ Thị Th; sơ đồ hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ lập ngày 08/9/2019; Biên bản quản lý đồ vật do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Quỳnh Phụ hồi 13 giờ ngày 07/9/2019 tại chỗ ở của Hoàng Đức C tại Thôn Bái Tr, xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng bà Vũ Thị Thà.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 07/9/2019, tại khu vực cánh đồng Hàng Sinh thuộc thôn Bồ Trang 1, xã Quỳnh H, huyện Quỳnh Phụ bị cáo Hoàng Đức C đã có hành vi lén lút lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wait, màu xanh, biển kiểm soát 17K1 – 3559 của bà Đỗ Thị Th. Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì chiếc xe trị giá 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Do đó, bị cáo C đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Điu 173. Tội trộm cắp tài sản

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:.

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm: Hành vi trộm cắp tài sản mà bị cáo C thực hiện đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bà Th được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an khu vực xảy ra tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bản án số 70/2016/HS - ST ngày 29/9/2016 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo C đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “tái phạm” là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo C đã thành khẩn khai báo; bị hại bà Th có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, bị cáo C được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt chính: Do bị cáo C không có ý thức tuân theo pháp luật, không chịu lao động sản xuất, phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích. Vì vậy cần buộc bị cáo C phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo C tuân theo pháp luật, giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo C tại phiên tòa bị cáo không có thu nhập ổn định, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo C.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là bà Th không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì và có đơn xin giảm nhẹ cho nên không xem xét.

[9] Tại phiên tòa: Bị cáo C thừa nhận chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wait, không đeo biển kiểm soát, xe không gương, không lắp 02 cánh yếm, không lắp chắn bùn phía trước; 01 biển kiểm soát 17K1- 3559, 01 mặt nạ xe mô tô nhãn hiệu Wait màu xanh; 02 ốp thân xe màu xanh; 02 yếm xe màu xanh, 01 ốp chắn bùn phía trước màu xanh bị cáo trộm cắp được của bà Th. Bà Th đã có đơn xin nhận lại tài sản và nội dung trong biên bản lấy lời khai bà Th thừa nhận đó là chiếc xe và các bộ phận của chiếc xe (đã bị C tháo rời sau khi trộm cắp) của bà và không có yêu cầu gì khác, cần trả lại chiếc xe và các bộ phận của chiếc xe (đã bị C tháo rời) cho bà Th.

[10] Về xử lý vật chứng: Cần trả lại bà Đỗ Thị Th chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wait, không đeo biển kiểm soát, xe không gương, không lắp 02 cánh yếm, không lắp chắn bùn phía trước; 01 biển kiểm soát 17K1- 3559; 01 mặt nạ xe mô tô nhãn hiệu Wait màu xanh; 02 ốp thân xe màu xanh; 02 yếm xe màu xanh, 01 ốp chắn bùn phía trước màu xanh. Tịch thu tiêu hủy: 01 kìm bằng kim loại dài 18,5cm có 02 tay cầm bọc nhựa màu đỏ; 01 tua vít bằng kim loại dài 24cm, một đầu có 04 cạnh, một đầu có tay cầm bọc nhựa màu đỏ trắng đen; 02 ốp thân xe màu đỏ.

[11] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

[13] Những chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên và lời trình bày của bị cáo phù hợp với tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử chấp nhận. 

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Đức C phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

3. Xử phạt bị cáo Hoàng Đức C 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại bà Đỗ Thị Th chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wait, không đeo biển kiểm soát, xe không gương không lắp 02 cánh yếm, không lắp chắn bùn phía trước; 01 biển kiểm soát 17K1- 3559; 01 mặt nạ xe mô tô nhãn hiệu Wait màu xanh; 02 ốp thân xe màu xanh; 02 yếm xe màu xanh; 01 ốp chắn bùn phía trước màu xanh.

Tịch thu tiêu hủy: 01 kìm bằng kim loại dài 18,5cm có 02 tay cầm bọc nhựa màu đỏ; 01 tua vít bằng kim loại dài 24cm, một đầu có 04 cạnh, một đầu có tay cầm bọc nhựa màu đỏ trắng đen, 02 ốp thân xe màu đỏ (như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ ngày 07 tháng 11 năm 2019 ).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hoàng Đức C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Hoàng Đức C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28 tháng 11 năm 2019). Bà Đỗ Thị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:99/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về