Bản án 99/2019/HS-ST ngày 15/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 99/2019/HS-ST NGÀY 15/10/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 110/2019/TLST-HS ngày 26/9/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 102/2019/QĐXXST-HS ngày 02/10/2019 đối với bị cáo:

Thân Văn N, sinh năm 1985; HKTT: Thôn B, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giơi tính: Nam; Tôn giao: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thân Văn G, sinh năm 1951 (đã chết) và con bà Vũ Thị H, sinh năm 1951; Có vợ Nguyễn Thị T, sinh năm 1988 (đã ly hôn) và có 01 con, sinh năm 2008.

Tiền sự: Không Tiền án: Có 05 tiền án - Bản án số 25 ngày 19/5/2010, Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 31 ngày 07/9/2010, Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xử phạt 02 năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Bản án phúc thẩm số 177 ngày 17/11/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 02 năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tổng hợp hình phạt với bản án số 25 ngày 19/5/2010 của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, buộc phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 02 năm 04 tháng 01 ngày tù.

- Bản án số 22 ngày 11/8/2011, Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án số 82 ngày 22/11/2011, Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với bản án số 177 ngày 17/11/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và bản án số 22 ngày 11/8/2011 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang, buộc phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba bản án là 04 năm 04 tháng 01 ngày tù. Ra trại ngày 27/8/2015.

- Bản án số 80 ngày 10/11/2017, Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ra trại ngày 31/5/2018.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/7/2019 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh – Có mặt *Bị hại:

- Ông Đặng Công S, sinh năm 1950 (Vắng mặt).

Đa chỉ: xã T, huyện T, tỉnh Bắc Ninh - Ông Bùi Văn K, sinh năm 1966 (Vắng mặt).

Đa chỉ: xã Cảnh H, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh *Người có quyền lợi và N vụ liên quan:

- Công ty TNHH cơ khí xây dựng Huy H Đại diện theo pháp luật: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1977 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh

- Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1977 (Vắng mặt).

Đa chỉ: Khu giãn dân thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thân Văn N được thuê làm thợ phụ cho Công ty TNHH cơ khí xây dựng Huy H do anh Nguyễn Văn H làm Giám đốc từ ngày 15/7/2019. Ngày 04/7/2019, anh H ký hợp đồng thi công công trình mái bạt xếp di động với Công ty Green Wing trong Khu công nghiệp Đ – H thuộc xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh (việc thi công được thực hiện trong giờ hành chính, kết thúc vào 17 giờ hàng ngày). Trong quá trình thi công, anh H đặt vấn đề với ông Đặng Công S là Tổ trưởng tổ bảo vệ Công ty Green Wing để gửi đồ dùng, dụng cụ thi công trong phòng bảo vệ sau khi hết giờ làm việc. Ông S đồng ý và nói lại với những người trong tổ bảo vệ biết việc trên.

Khong 5 giờ 30 phút ngày 22/7/2019, do có ý định lấy tài sản của anh H gửi tại phòng bảo vệ, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius mầu đỏ, biển kiểm soát: 98M2 – 5013 từ phòng trọ đến chỗ làm tại công ty Green Wing. Khi đến cổng công ty, N dựng xe ngoài cổng rồi đi vào phòng bảo vệ có ông Đặng Công S và ông Bùi Huy K, N đã nói dối hai ông là “Cho cháu mang cuộn dây hàn đi có việc”. Do N thường xuyên mang đồ cho nhóm tổ thợ của anh H làm nên khi thấy N nói vậy thì ông S và ông K tin tưởng là thật nên không có ý kiến gì và đồng ý cho N mang đi. Sau khi lấy được tài sản, N mang ra xe mô tô rồi đi thẳng đến cửa hàng thu mua phế liệu của anh Nguyễn Văn T bán được 500.000 đồng. Số tiền có được N mua ma túy của một người không quen biết tại khu vực bến xe buýt thuộc địa phận phường Đ, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh sử dụng hết. Sau đó N đến Công ty Green Wing làm việc như hàng ngày. Sau khi biết sự việc anh H đã trình báo Công an. Tại cơ quan điều tra, N đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 29 ngày 23/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du, kết luận: Cuộn dây cáp hàn 16 dùng cho máy hàn điện tử ký hiệu JEIL WELDING CABLE DESIGNED BY KORE ISO 9001:2008 dài 30m, khớp nối DKJ 35 – 50 xuất xứ Hàn Quốc, tài sản đã qua sử dụng, giá trị còn lại là 1.000.000 đồng.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 100/CT - VKS ngày 24/9/2019 của Viện kiêm sat nhân dân huyên Tiên Du đa truy tô bị cáo Thân Văn N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điêu 174 Bô luât hinh sư.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận: Bị cáo làm thợ phụ cho công ty cơ khí do anh H làm giám đốc. Khi biết anh H gửi đồ dùng, dụng cụ thi công trong phòng bảo vệ Công ty Green Wing bị cáo nảy sinh ý định lấy tài sản bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khoảng 5 giờ 30 phút ngày 22/7/2019 bị cáo đi đến phòng bảo vệ nói với bảo vệ “Cho cháu mang cuộn dây hàn đi có việc”. Khi đi bị cáo điều khiển chiếc xe máy Yamaha Sirius mượn của chị dâu Ka Hảo nhưng không nói rõ mục đích đi đâu. Lấy được tài sản bị cáo đem bán cho cửa hàng phế liệu được 500.000 đồng. Số tiền có được bị cáo mua ma túy sử dụng hết.

Bị hại ông S, ông K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nH vắng mặt, lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Do quen biết nên ông S, ông K cho anh H gửi nhờ dụng cụ thi công tại phòng bảo vệ. Sáng ngày 22/7/2019 bị cáo N là thợ làm thuê của anh H nói lấy lấy cuộn dây để làm việc. Do tin tưởng nên các ông đồng ý để bị cáo N lấy cuộn dây hàn.

Anh H là đại diện theo pháp luật của Công ty Huy H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nH vắng mặt, lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Ngày 15/8/2019 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cuộn dây cáp hàn cho công ty. Sau khi nhận lại tài sản, anh H không yêu cầu đề nghị gì về dân sự.

Người có quyền lợi và N vụ liên quan anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nH vắng mặt, lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Sáng ngày 22/7/2019 anh có mua cuộn dây hàn nhưng không biết bị cáo N phạm tội mà có. Đối với số tiền 500.000 đồng giá trị không lớn nên anh không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 100/CT- VKS ngày 24/9/2019. Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Thân Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cư điểm b khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 23/7/2019. Phạt bổ sung bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên không đề nghị.

Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự: Không đề cập giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay , bị cáo sau khi nghe luận tội của đai diên Viên kiêm sát nhân dân huyện Tiên Du, thừa nhận có tội, không tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ được và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 6 giờ ngày 22/7/2019 tại Công ty Green Wing thuộc Khu công nghiệp Đ – H thuộc xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Thân Văn N đã có hành vi gian dối đối với ông Đặng Công S và ông Bùi Huy K là bảo vệ của Công ty Green Wing (đang quản lý tài sản của Công ty TNHH cơ khí xây dựng Huy H) để chiếm đoạt 01 cuộn dây cáp hàn trị giá 1.000.000 đồng của công ty. Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng nH bị cáo chưa được xóa án tích về tội “Trộm cắp tài sản” nên Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp của pháp nhân được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an, dư luận xấu trong khu công nghiệp. Do vậy cần một hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã phạm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy có nhân thân rất xấu. Ngày 19/5/2010, Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 07/9/2010, Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xử phạt 02 năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Bản án phúc thẩm số 177 ngày 17/11/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xử phạt 02 năm tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, tổng hợp hình phạt với bản án số 25 ngày 19/5/2010 của Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, buộc phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 02 năm 04 tháng 01 ngày tù. Ngày 11/8/2011, Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 22/11/2011, Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với bản án số 177 ngày 17/11/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang và bản án số 22 ngày 11/8/2011 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang, buộc phải chấp hành hình phạt chung cho cả ba bản án là 04 năm 04 tháng 01 ngày tù. Ngày 10/11/2017, Tòa án nhân dân huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bố đẻ bị cáo được tặng thưởng Huy chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do các tiền án trên của bị cáo là tình tiết cấu thành tội phạm nên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định không có thu nhập, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền là có căn cứ.

Về trách nhiệm dân sự: Anh H đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bị cáo bồi thường, Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Anh T không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 500.000 đồng khi mua cuộn dây hàn. Hội đồng xét xử nhận thấy đây là sự tự nguyện của anh T nên không cần truy thu số tiền trên của bị cáo để thu nộp ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc xe mô tô Yamaha Sirius mầu đỏ, BKS:

98M2-5013 khi chị Hảo cho bị cáo mượn không biết bị cáo sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.

Quá trình điều tra xác định anh T khi mua cuộn dây cáp hàn của bị cáo không biết là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra chỉ giáo dục, nhắc nhở là phù hợp. Trong quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận hành vi mua ma túy của một người không quen biết để sử dụng trái phép vào ngày 22/7/2019. Tuy nhiên bị cáo không nhớ địa điểm cụ thể nơi sử dụng trái phép chất ma túy ở đâu và tên, tuổi của người bán ma túy cho bị cáo nên chưa đủ căn cứ để xem xét xử lý.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Thân Văn N phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Xử phạt bị cáo Thân Văn N12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 23/7/2019.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi và N vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 99/2019/HS-ST ngày 15/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:99/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về